Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếng Pali”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Phần hình thái học bắt nguồn từ bài viết ngày trước của mình, bài đó không hoàn hảo cũng như bảng biến cách không thể hiện được toàn bộ điểm quan trọng trong biến các Pāḷi nên mình xin được gỡ để tránh hiểu lầm không đáng có.
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi qua ứng dụng di động Sửa đổi từ ứng dụng Android
 
(Không hiển thị 21 phiên bản của 16 người dùng ở giữa)
Dòng 1:
{{chú thích trong bài}}
{{otheruses2|Pali}}
{{Tóm tắt về ngôn ngữ
|name=Tiếng Pali
|nativename=Pāli / पाऴि𑀧𑀸𑀮𑀺
|pronunciation=[paːli]
|states=[[Ấn Độ]], [[MyanmaMyanmar]], [[Sri Lanka]], [[Nepal]],[[Lào]], [[Campuchia]], [[Thái Lan]], và nhà sư ở những nước có Phật giáo hệ phái Nam Tông.
|iso1=pi
|iso2=pli
Hàng 18 ⟶ 17:
|notice=Indic
}}
'''Pāli''' (पाऴि𑀧𑀸𑀮𑀺) còn gọi là '''Nam Phạn''', là một ngôn ngữ thuộc [[nhóm ngôn ngữ Ấn-Arya|nhóm Ấn-Arya]] Trung cổ hay [[prakrit]]. Nam Phạn là [[ngôn ngữ kinh điển]] của [[Thượng tọa bộ|Phật giáo Nam Tông]], dùng trong việc chép kinh cùng tụng niệm, trong đó có bộ Kinh [[Tam tạng]] (tên theo tiếng Nam Phạn là ''Tipitaka''). [[chữ viết|Chữ]] Nam Phạn được đúc kết từ mấy nguồn [[hệ chữ viết|hệ thống chữ viết]] khác nhau, từ [[chữ Brahmi]], [[chữ Devanāgarī|Devanāgarī]] và các chữ viết thuộc [[nhóm ngôn ngữ Ấn-Aryan|hệ Ấn-Aryan]]. Khi [[Bảng chữ cái Latinh|Latinh hóa]] thì hệ thống do [[Thomas William Rhys Davids|T. W. Rhys Davids]] thuộc [[Pali Text Society]] khởi xướng được dùng nhiều hơn cả.
 
== Nguồn gốc ngôn ngữ và sự phát triển ==
Bản thân từ ''Pāli'' có nghĩa là "hàng chữ" hay "văn bản (chính tắc)", và tên gọi này dường như bắt nguồn từ các truyền thống chú giải, trong đó ''Pāli'' (theo nghĩa các hàng chữ hay văn bản nguyên gốc được trích dẫn) được phân biệt với các câu chú giải hay là các câu bằng tiếng bản xứ theo sau đó trên trang bản viết. Do đó, tên gọi của ngôn ngữ này đã gây ra nhiều tranh luận giữa các học giả thuộc mọi thời đại; cách viết của tên cũng khác nhau, với "ā" ([ɑː]) dài và "a" ([a]) ngắn, cũng như với âm [[bật lưỡi]] (''retroflex'') ([ɭ]) hay là không có âm bật lưỡi ([l]) "l". Cho đến ngày nay, không có một cách viết chuẩn duy nhất của tên của ngôn ngữ này; cả bốn cách viết có thể tìm thấy trong các [[sách giáo khoa]].
 
Pāli là [[ngôn ngữ văn chương]] của nhóm ngôn ngữ [[Prakrit]]; nó không phải (và chưa bao giờ) là một ngôn ngữ nói thông thường, theo nghĩa của một [[tiếng mẹ đẻ|ngôn ngữ mẹ đẻ]]. Mặc dù có nhiều nghiên cứu xuất sắc về vấn đề này, vẫn thường có sự nhầm lẫn về các liên hệ giữa Pāli và tiếng bản xứ của [[tiếng Magadha]] cổ đại.
Hàng 29 ⟶ 28:
Có nhiều sự giống nhau đáng kể giữa Pali và một dạng cổ của Magadha - Ardhamagadha (Bán Magadha) - được bảo lưu trong các văn bản [[đạo Jaina|đạo Jain]] cổ. Ardhamagadha khác với Magadha cũng trong các điểm tương tự như là với Pali. Chẳng hạn, Ardhamagadha cũng không biến đổi ''r'' thành ''l'', và trong biến tố danh từ nó cho thấy ''-o'' ở cuối thay vì ''-e'' như tiếng Magadha ít nhất là trong nhiều nơi có vần điệu. Điều tương tự này không phải là ngẫu nhiên, bởi vì người sáng lập ra đạo Jain [[Mahavira]] cũng truyền đạo trên cùng một khu vực ([[Magadha]]) với [[Tất-đạt-đa Cồ-đàm|Phật Thích Ca]].
 
Oskar von Hinuber đã cho rằng Pāli có thể bắt nguồn như là một dạng ''[[lingua franca]]'' (ngôn ngữ thương mại) vào thời đại đế chế [[Maurya]] của [[A-dục vương]]. Cho đến thời điểm [[Phật giáo]] truyền sang [[Sri Lanka]] (bởi các nhà truyền giáo mà vua A-dục vương phái đi), theo như các nguồn trong [[kinh Phật]]), Pāli là một ngôn ngữ văn chương đủ phức tạp để được sử dụng trong việc ghi lại toàn bộ [[Tam tạng]]. Sau khi [[Bộ kinh]] Pāli được truyền sang [[Sri Lanka]], nó tiếp tục được bảo quản hoàn toàn bằng tiếng Pāli, trong khi các chú giải đi kèm theo nó (theo thông tin cung cấp bởi [[Buddhaghosa]]) được dịch sang [[tiếng Sinhala]] và được bảo quản trong tiếng địa phương qua nhiều đời khác nhau.
 
Tuy nhiên nó cuối cùng đã bị [[tiếng Phạn|tiếng Sanskrit]] thay thế trong vai trò một [[ngôn ngữ văn chương]] và [[tôn giáo]] sau khi các học giả [[Panini (ngôn ngữ học)|Pānini]] ở [[Ấn Độ]] hình thức hóa tiếng Phạn cổ điển. Ở [[Sri Lanka]], Pāli được cho là đã vào giai đoạn thoái trào vào khoảng [[thế kỷ 5|thế kỉ thứ 5]] (khi tiếng Sanskrit đạt đến đỉnh cao), nhưng rồi cuối cùng vẫn tồn tại. Tác phẩm của [[Buddhaghosa]] đóng vai trò quan trọng cho sự hồi sinh trở lại của Pali như là một ngôn ngữ quan trọng của [[Phật giáo]]. Bộ [[Visuddhimagga]] cùng các tác phẩm bình chú khác mà Buddhaghosa biên dịch đã hệ thống hóa và làm gọn lại những chú giải truyền thống bằng tiếng Sinhala, vốn đã được duy trì và mở rộng ở Sri Lanka từ thế kỉ thứ 3.
 
Ngày nay Pāli được nghiên cứu chủ yếu là để tìm hiểu các bộ kinh của [[Phật giáo Tiểu Thừa]], và thường được sử dụng để tụng niệm trong các nghi thức tế lễ. Các văn thư thông thướngthường liên quan đến tôn giáo bằng tiếng Pāli như sử ký, y thư, văn bia, cũng có giá trị lịch sử quan trọng. Các trung tâm lớn nghiên cứu bằng tiếng Pāli vẫn tồn tại ở các nước có truyền thống [[Thượng tọa bộ|Theravada]] ở [[Đông Nam Á]]: [[MyanmaMyanmar]], [[Sri Lanka]], [[Thái Lan]], [[Lào]] và [[Campuchia]]. Học thuật Pāli ở vùng Bắc [[Ấn Độ]] nhìn chung là kết thúc với sự trỗi dậy của [[triều đại Sena]], và đi xuống tại vùng bán đảo Ấn Độ, và có lẽ kéo dài nhất tại bang [[Orissa]], nghĩa là, cuối cùng kết thúc (cùng với sự thực hành Phật giáo) với sự thất bại của cuộc kháng chiến cuối cùng trước sự bành trướng của các đế quốc [[Hồi giáo]] trên tiểu lục địa [[Ấn Độ]]. Kể từ [[thế kỷ 19|thế kỉ thứ 19]], nhiều hội đoàn phục hưng việc nghiên cứu Pāli ở Ấn Độ đã quảng bá nhận thức về ngôn ngữ này và nền văn học của nó, có lẽ đáng kể nhất là [[Maha Bodhi Society]] thành lập bởi [[Anagarika Dharmapala|Anagarika Dhammapala]].
 
Ở [[châu Âu]], [[Pali Text Society]] là lực lượng chính cùng với các học giả [[phương Tây]] quảng bá việc nghiên cứu tiếng Pāli kể từ ngày thành lập vào năm [[1881]]. Đặt trụ sở tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Anh]], hội này đã xuất bản các sách Pāli phiên ra [[latinh|tiếng Latinh]], cùng với nhiều bản dịch [[tiếng Anh]] của các nguồn này. Pali Text Society được lập ra một phần để bù đắp cho kinh phí rất thấp dành cho ngành [[Ấn Độ học]] vào cuối thế kỉ 19 ở Anh; một cách phi lý là người Anh không mạnh mẽ trong việc nghiên cứu tiếng Phạn và Prakrit như là ở [[Đức]], [[Nga]] và ngay cả [[Đan Mạch]] - một thực tế kéo dài đến tận ngày nay. Không cần phải là xứ thuộc địa như là trường hợp [[người Anh]] với [[Sri Lanka]] và [[Mayanma]], các viện nghiên cứu như [[Thư viện Hoàng gia Đan Mạch]] đã xây dựng một bộ sưu tập lớn các văn bản tiếng Pāli, và xây dựng một truyền thống nghiên cứu tiếng Pāli khá mạnh.
Hàng 40 ⟶ 39:
Gần như mỗi từ trong Pāli có [[từ cùng nguồn gốc]] trong các "[[ngôn ngữ Ấn-Aryan Trung cổ]]" Prakrit khác, ví dụ, [[Jain Prakrit]]. Quan hệ với [[Tiếng Phạn|Sanskrit]] trước đó (ví dụ, [[tiếng Vệ-đà]]) là ít trực tiếp hơn và phức tạp hơn. Theo [[lịch sử]], ảnh hưởng giữa Pāli và [[Tiếng Phạn|Sanskrit]] có thể cảm nhận ở cả hai chiều. Sự giống nhau giữa tiếng Pāli và [[Tiếng Phạn|Sanskrit]] thường được cường điệu bằng cách so sánh nó với những tác phẩm sau này bằng Sanskrit—mà chúng được viết ra nhiều thế kỉ sau khi Sanskrit đã không còn là một ngôn ngữ sống nữa, và bị ảnh hưởng bởi các phát triển trong vùng Trung Ấn, bao gồm cả việc mượn trực tiếp một phần từ vựng Trung Ấn; trong khi đó, phần lớn các thuật ngữ Pāli sau này được mượn từ những từ vựng Sanskrit của các ngành tương đương, hoặc là trực tiếp hoặc là với một số thay đổi về cách phát âm nào đó.
 
Pāli sau này cũng có một vài [[từ mượn]] từ các ngôn ngữ địa phương nơi mà Pāli được sử dụng (ví dụ người Sri Lanka thêm từ trong tiếng vào Pāli). Những sử dụng này phân biệt Pāli tìm thấy trong [[Sutta Pitaka|Suttapiṭaka]] và các tác phẩm sau này chẳng hạn như các lời chú giải Pāli trong các bộ kinh và các câu chuyện dân gian (ví dụ, các câu chuyện bình giải [[Jataka|Jātaka]]), và các nghiên cứu so sánh và xác định niên đại của bản sách dựa trên những từ vay mượn đó bây giờ trở thành một ngành chuyên môn.
 
Pāli không phải chỉ được sử dụng trong việc truyền đạt những lời dạy của [[Phật]], bởi vì tồn tại nhiều bản sách khác không liên quan đến [[tôn giáo]], như là các sách về y khoa, bằng tiếng Pāli. Tuy vậy, các nghiên cứu học thuật về [[ngôn ngữ]] này tập trung vào các tác phẩm [[tôn giáo]] và [[triết học]], do cánh cửa độc nhất vô nhị mà nó mở ra trong một giai đoạn phát triển của [[Phật giáo]].
Hàng 175 ⟶ 174:
'''Phân loại từng từ một'''
:Mano-pubbaṅ-gam=ā dhamm=ā, mano-seṭṭh=ā mano-may=ā;
:Mind-before-going=''m.pl.nom.'' [[Dharma (Phật giáo)|dharmaThing]]=''m.pl.nom.'', mind-foremost=''m.nom.pl.'' mind-made=''m.nom.pl.''
:Manas=ā ce paduṭṭh=ena, bhāsa=ti vā karo=ti vā,
:Mind=''n.sg.inst.'' if corrupted=''n.sg.inst.'' speak=''3.sg.pr.'' either act=''3.sg.pr.'' or,
Hàng 186 ⟶ 185:
:manomaya "chứa đựng trí óc (Tâm)" hay "làm ra bởi trí óc (Tâm)"
 
Dịch nghĩa sát: "[[Dharma (Phật giáo)|DharmaPháp]] với trí óc (Tâm) là lãnh đạo, trí óc (Tâm) là thủ lĩnh, được làm ra bởi trí tuệ. Nếu [ai đó] nói hoặc hành động với một trí óc (Tâm) mục nát, từ [nguyên nhân] đó đau khổ sẽ bám theo anh ta, như là bánh xe [đi theo] vết chân của con vật kéo."
 
Một bản dịch có vẻ tự do hơn bởi Acharya Buddharakkhita
Hàng 221 ⟶ 220:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
* Buddhadattatthera, ''The New Pali Couse I'', The Colombo Apothecaries' CO., LTD, 1954, Ceylon.
 
* Buddhadattatthera, ''The New Pali Couse II'', The Colombo Apothecaries' CO., LTD, 1956, Ceylon.
[[Thể loại:Phật giáo]]
* [https://www.ancient-buddhist-texts.net/Textual-Studies/Grammar/Grammatical-Terms.htm Grammatical Terms compiled by Bhikkhu Nyanamoli]
[[Thể loại:Ngôn ngữ Ấn Độ]]
{{DEFAULTSORT:Pali}}
[[Thể loại:Nhóm ngôn ngữ Ấn-Aryan]]
[[Thể loại:PhậtTiếng Pali| giáo]]
[[Thể loại:Ngôn ngữ tại Ấn Độ]]
[[Thể loại:NhómNgữ ngôn ngữchi Ấn-AryanArya]]
[[Thể loại:Ngôn ngữ tại Bangladesh]]