Bước tới nội dung

Nhà nước Mới (Bồ Đào Nha)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đây là một phiên bản cũ của trang này, do Dotruonggiahy12 (thảo luận | đóng góp) sửa đổi vào lúc 15:33, ngày 14 tháng 9 năm 2022 (Kinh tế). Địa chỉ URL hiện tại là một liên kết vĩnh viễn đến phiên bản này của trang, có thể khác biệt rất nhiều so với phiên bản hiện hành.

Cộng hòa Bồ Đào Nha
Tên bản ngữ
  • República Portuguesa
1933–1974

Tiêu ngữDeus, Pátria e Familia
("Thượng đế, Tổ quốc, Gia đình")[1]

Quốc caA Portuguesa
("Bồ Đào Nha ca")
noicon
Tổng quan
Thủ đôLisboa
Ngôn ngữ thông dụngTiếng Bồ Đào Nha
Tôn giáo chính
Công giáo
Chính trị
Chính phủNước cộng hòa đại nghị độc đảng Salazarist đơn nhất trong chuyên chính uy quyền
Tổng thống 
• 1926–1951
Óscar Carmona
• 1951–1958
Francisco Craveiro Lopes
• 1958–1974
Américo Tomás
Thủ tướng 
• 1932–1968
António de Oliveira Salazar
• 1968–1974
Marcello Caetano
Lập pháp
• Viện tư vấn
Viện xã đoàn
• Viện lập pháp
Quốc hội
Lịch sử
Lịch sử 
• Sáng lập
19 tháng 3 1933
14 tháng 12 năm 1955
25 tháng 4 1974
Địa lý
Diện tích 
• 1940
2,168,071 km2
(1 mi2)
• 1970
2,168,071 km2
(1 mi2)
Dân số 
• 1940
17,103,404
• 1970
22,521,010
Kinh tế
Đơn vị tiền tệEscudo
Mã ISO 3166PT
Tiền thân
Kế tục
Chuyên chế dân tộc
Chính phủ quân đội cứu quốc
Hiện nay là một phần của Bồ Đào Nha
 Angola
 Mozambique
 Guinea-Bissau
 Cabo Verde
 São Tomé và Príncipe
 Ấn Độ (Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha)
 Đông Timor
 Trung Quốc
   Ma Cao


Nhà nước Mới (tiếng Bồ Đào Nha: Estado Novo, phát âm tiếng Bồ Đào Nha[(ɨ)ʃˈtadu, -ðu ˈnovu]) là chế độ chính trị theo chủ nghĩa xã đoàn của Bồ Đào Nha từ năm 1933 đến năm 1974. Tiền thân của Nhà nước Mới là nền Chuyên chính Quốc gia, được thành lập sau khi cuộc đảo chính ngày 28 tháng 5 năm 1926 lật đổ Đệ nhất Cộng hòa. António de Oliveira Salazar là lãnh tụ của Nhà nước Mới từ năm 1932 đến 1968. Giới sử học gọi chung chế độ Nhà nước Mới và nền Chuyên chính Quốc gia là Đệ nhị Cộng hòa Bồ Đào Nha.

Nhà nước Mới là một trong những chế độ độc tài sống lâu nhất châu Âu. Bản chất của Nhà nước Mới là bảo thủ Công giáo, chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã đoàn. Nhà nước Mới chống các chủ trương cấp tiến, như chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa vô trị, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa chống thực dân.[a] Quốc sách của Nhà nước Mới là duy trì đế quốc của Bồ Đào Nha, có diện tích tổng cộng 2,168,071 km². Nhà nước Mới chủ trương Bồ Đào Nha là nước đa lục địa, tức là Angola, Mozambique và các lãnh thổ Bồ Đào Nha khác đều là một phần của nước mẹ, Bồ Đào Nha có sứ mệnh giáo hóa người dân ở các thuộc địa châu Á, châu Phi. Các đế quốc khác đã chịu theo làn gió quốc tế tự quyết, độc lập.[3] Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhà nước Mới bị hầu hết cộng đồng quốc tế công kích do không chịu từ bỏ các thuộc địa.

Năm 1955, Bồ Đào Nha gia nhập Liên Hợp Quốc. Bồ Đào Nha là thành viên sáng lập của NATO, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tếHiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu. Năm 1968, Marcello Caetano được bổ nhiệm làm thủ tướng thay thế cho Salazar. Bồ Đào Nha tiếp tục chính sách hội nhập kinh tế với châu Âu, ký hiệp định mậu dịch tự do với Cộng đồng Kinh tế châu Âu vào năm 1972.

Cuối thập niên 50, Bồ Đào Nha đã xóa nạn mù chữ trẻ em tuổi đi học.[4][5] Từ năm 1950 tới năm 1970, GDP bình quân đầu người tăng trung bình 5.7% mỗi năm.[6] Năm 1960, GDP bình quân đầu người của Bồ Đào Nha chỉ bằng 38% trung bình Cộng đồng châu Âu. Năm 1968, GDP bình quân đầu người đã lên tới 48%. Năm 1973, GDP bình quân đầu người bằng 56.4% trung bình Cộng đồng châu Âu.[7] Nhìn chung, nền kinh tế Bồ Đào Nha hồi phục chút ít cho đến năm 1950, rồi tăng trưởng mạnh, bắt đầu tiến kịp các nước giàu nhất Tây Âu.[8] Tuy nhiên, Bồ Đào Nha vẫn có GDP bình quân đầu người thấp nhất Tây Âu, tỷ lệ chết có thể phòng ngừa và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao nhất ở châu Âu.[9][10][11] Ngày 25 tháng 4 năm 1974, một nhóm sĩ quan tả khuynh ở Lisboa gây binh biến lật đổ Nhà nước Mới.

Bối cảnh

Cuối thế kỷ 19, Vua Bồ Đào Nha Carlos I ký kết các điều ước để ổn định tình hình ở các thuộc địa châu Phi của Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, dư luận trong nước cho rằng các điều ước phương hại quyền lợi quốc gia. Bồ Đào Nha bị phá sản hai lần, đầu tiên vào ngày 14 tháng 6 năm 1892 và lần nữa vào ngày 10 tháng 5 năm 1902, gây đình công trong công nghiệp, thù hằn từ phe xã hội chủ nghĩa, phe cộng hòa và khiến cho báo chí chỉ trích chế độ quân chủ. Carlos I bổ nhiệm Joãs Franco làm thủ tướng và sau chấp nhận Quốc hội giải tán. Năm 1908, Carlos I bị phần tử cộng hòa ám sát ở Lisboa. Chế độ quân chủ cáo chung vào ngày 5 tháng 10 năm 1910: cuộc cách mạng thành lập nền cộng hòa đầu tiên của Bồ Đào Nha. Từ năm 1910 tới năm 1926, Đệ nhất Cộng hòa cố duy trì nền dân chủ cộng hòa đại nghị.

Ngày 28 tháng 5 năm 1926, Đệ nhất Cộng hòa bị quân đội lật đổ. Quân đội thành lập nền Chuyên chính Quốc gia, là tiền thân của Nhà nước Mới. António de Oliveira Salazar thành lập chế độ Nhà nước Mới bởi vì chủ nghĩa phát xít đang thịnh ở nhiều nước như Ý và Đức mà chống cộng. Tính chính danh của Nhà nước Mới là sự ổn định so với sự bất ổn của nền Đệ nhất Cộng hòa.

Vài học giả người Bồ Đào Nha nhận định,[12][13] chính sách của Salazar ổn định tình hình chính trị, tài chính, lập lại nền trị an và giúp tăng trưởng kinh tế. Đối với người dân, đây có vẻ là đột phá ấn tượng và Salazar đạt đến đỉnh phổ biến tại thời điểm này. Sự biến hình của Bồ Đào Nha từ đó lấy tên A Lição de Salazar (Bài học của Salazar). Salazar phản đối chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hộichủ nghĩa tự do. Ông ủng hộ Công giáo, bảo thủchủ nghĩa dân tộc. Chính sách lớn của Nhà nước Mới là duy trì đế quốc đa châu của Bồ Đào Nha, tự chủ tài chính, độc lập chính trị và khai hóa, giữ ổn định các thuộc địa ở châu Phi và châu Á.

Lịch sử

Nguyên lý chính trị của Nhà nước Mới là giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo, giống như chính quyền Englbert Dollfuss đương thời ở Áo.[14] Chế độ kinh tế của Nhà nước Mới lấy xã đoàn làm trung tâm theo những thông điệp của giáo hoàng như Rerum novarum[15]Quadragesimo anno,[15] mục đích là phòng ngừa xung độ giai cấp và ưu tiên các giá trị xã hội hơn các vấn đề kinh tế. Giáo hội Công giáo dạy rằng hiệp hội lao động là một phần của trật tự thiên nhiên như gia đình, cho nên mọi người đều vốn có quyền làm việc và thành lập công đoàn, chủ hay nhà nước không được tước đoạt. Giáo hội ủng hộ thành lập chế độ xã hội theo xã đoàn.[16]

Tân hiến pháp được một nhóm luật sư, doanh nhân, giáo sĩ và giáo sư soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Salazar, có Marcelo Caetano đóng vai trò quan trọng.[17] Căn cứ hiến pháp, Nhà nước Mới là chế độ chính trị bảo vệ quyền lợi xã đoàn thay vì cá nhân. Quyền lợi quốc gia được ưu tiên so với lợi ích riêng biệt. Người dân do các xã đoàn thay mặt, không phải các đảng phái, bởi vì Salazar cho rằng chế độ đa đảng đã thất bại hoàn toàn ở Bồ Đào Nha.[18]

Tuy nhiên, trái với Mussolini và Hitler, Salazar không hề có ý định thành lập chế độ đảng trị. Ổng phản đối khái niệm đảng phái. Tuy chỉ Liên minh Toàn quốc được hoạt động hợp pháp, chủ đích của Liên minh Toàn quốc là kiểm soát dư luận thay vì kích động dư luận. Salazar muốn giữ gìn các giá trị truyền thống thay vì khởi xướng trật tự xã hội mới. Bộ trưởng, nhà ngoại giao và công chức không bị ép phải gia nhập Liên minh Toàn quốc.[19]

Howard Wiarda nhận xét, "giới lãnh đạo trong Nhà nước Mới thật sự quan tâm về sự nghèo nàn và lạc hậu của đất nước. Họ muốn cắt đứt ảnh hưởng chính trị của Anh và Hoa Kỳ mà xây dựng chế độ chính trị bản xứ, cải thiện dân sinh khổ sở của người nghèo thành thị lẫn nông thôn."[20]

Tân hiến pháp của Salazar tồn tại tới năm 1974. Tổng thống do nhân dân bầu, nhiệm kỳ bảy năm. Tổng thống có quyền hạn rộng lớn, gần như độc tài, bao gồm quyền bổ nhiệm, cách chức thủ tướng.[21] Tổng thống là người phân xử tối cao của chính trị quốc gia.[21][b] Tuy nhiên, Tổng thống Carmona cho phép Salazar tự do hành động sau khi bổ nhiệm. Carmona và các hậu nhiệm chủ yếu là bù nhìn, trong khi Salazar nắm thực quyền. Wiarda cho rằng Salazar lên nắm quyền được không chỉ nhờ hiến pháp mà còn nhờ nhân cách: độc đoán, chuyên chế, đầy tham vọng, cần cù và thông minh tuyệt đỉnh.[23] Quốc hội là cơ quan lập pháp của Nhà nước Mới. Chỉ thành viên Liên minh Toàn quốc được vào Quốc hội. Phạm vi làm luật của Quốc hội không được tác động tới chi tiêu nhà nước.[24] Viện Xã đoàn gồm đại biểu các thành phố, các nhóm tôn giáo, văn hóa, tổ chức nghề nghiệp và các nghiệp đoàn nhà nước.

Hiến pháp được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 19 tháng 3 năm 1933.[21][25] Dự thảo hiến pháp được công bố một năm trước và người dân được mời góp ý kiến cho báo chí,[25] nhưng ý kiến phản đối thường khá chung chung. 99.5% số phiếu tán thành phê chuẩn hiến pháp, chỉ ít hơn 6,000 người bỏ phiếu chống,[25] nhưng có 488,840 người không đi bỏ phiếu mà vẫn tính[25] là tán thành[26] (danh sách cử tri có 1,330,258 người). Hugh Kay lập luận rằng số người không đi bỏ phiếu lớn có thể là do chỉ được tán thành hoặc không tán thành toàn bộ hiến pháp mà không được biểu quyết từng điều khoản.[25] Phụ nữ lần đầu tiên được đi bỏ phiếu ở Bồ Đào Nha, tuy phải tốt nghiệp trung học, trong khi đàn ông thì chỉ cần biết đọc viết. Nền Đệ nhất Cộng hòa không cho phụ nữ quyền bầu cử, bất kể nỗ lực của phong trào nữ quyền.[27]

Năm 1933, Nhà nước Mới ban hành chế độ pháp luật thành lập hệ thống phúc lợi xã hội toàn diện theo chủ nghĩa xã đoàn,[28] vừa chống chủ nghĩa tư bản vừa chống xã hội chủ nghĩa. Giai cấp lao động bị xã đoàn hóa, doanh nghiệp chịu quy định pháp luật chặt chẽ. Tuy các tổ chức công nhân phải chịu sự kiểm soát của nhà nước, nhưng công nhân lần đầu tiên được công nhận quyền lợi và được hưởng các chương trình phúc lợi xã hội.[29] Tuy nhiên, các tổ chức xã đoàn không phải là trung tâm quyền lực, cho nên chủ nghĩa xã đoàn chưa phải là nền tảng chân chính của chế độ.[30]

Năm 1934, chính quyền nghiền nát Phong trào Nghiệp đoàn Toàn quốc[31] và đày Francisco Rolão Preto, lãnh tụ của phong trào đi lưu vong. Salazar chỉ trích tính ngoại lai của phong trào (ám chỉ chủ nghĩa quốc xã) và "sự tâng bốc thanh niên, sự sùng bái vũ lực, sự suy tôn quyền lực nhà nước trong đời sống xã hội và xu hướng tập hợp quần chúng quanh một lãnh đạo" là sự khác biệt cơ bản giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã đoàn Công giáo của Nhà nước Mới. Liên minh Toàn quốc của Salazar là tổ chức bao trùm để ủng hộ chế độ, cho nên không có chủ trương riêng với chế độ. Bấy giờ, nhiều nước châu Âu lo sợ tiềm năng hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản. Salazar không chỉ cấm các đảng theo chủ nghĩa Marx, mà còn cấm luôn các đảng phát xít-nghiệp đoàn. Chế độ bị chỉ trích nhiều nhất là vi phạm quyền con người, quyền công dân để duy trì sự ổn định.[24]

Nhà nước Mới có những điểm giống với chính quyền phát xít Ý của Benito Mussolini, nhưng khác hẳn về nền tảng lý luận.[32] Tuy ngưỡng mộ Mussolini, Salazar phản đối sự độc tài phát xít là chế độ phản Công giáo, vi phạm cả pháp lý lẫn luân lý. Ông cũng coi chủ nghĩa quốc xã là có các yếu tố ngoại đạo. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Salazar tuyên bố: "Chúng tôi phản đối mọi hình thức chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa nghiệp đoàn và bất cứ thứ gì có thể chia rẽ, giảm thiểu hay tiêu hủy gia đình. Chúng tôi chống chiến tranh giai cấp, chủ nghĩa vô thần và sự bất trung với nước; chống chế độ nông nô, nhân sinh quan duy vật và võ đoán".[2] Bề ngoài thì Nhà nước Mới có nhiều tổ chức phát xít, nhưng các tổ chức này không sở hữu thế lực chính trị. Sau cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, Salazar thanh trừ các thành phần phát xít khỏi chế độ để tranh thủ Anh.[33][34]

Chiến tranh thế giới thứ hai

Bồ Đào Nha chính thức trung lập trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha (1936-39), nhưng âm thầm trợ giúp phe của Francisco Franco. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Bồ Đào Nha giữ chính sách trung lập để tránh bị Đức xâm lược. Ban đầu, chế độ tỏ đồng cảm với phe Trục, như Salazar tán thành Chiến dịch Barbarossa xâm lược Liên Xô của Đức. Tuy nhiên, đây có thể là vì lập trường chống cộng của Salazar chứ không phải vì thật lòng ủng hộ Hitler. Từ năm 1943 trở đi, Bồ Đào Nha ngả về khối Đồng minh. Bồ Đào Nha chịu cho thuê căn cứ không quân ở Azores do bị khối Đồng minh dọa xâm lược nếu không chấp nhận yêu cầu. Nhờ chính thức trung lập nên Bồ Đào Nha được buôn bán với cả hai bên, chỉ phải ngưng bán tungsten và cao su cho Đức vào năm 1944 sau khi khối Đồng minh gây sức ép.[35][36] Lisbon là căn cứ cho Hội Chữ thập đỏ Quốc tế hoạt động giúp đỡ các tù binh Đồng minh và là điểm trung chuyển chính giữa Anh và Hoa Kỳ.[37]

Năm 1942, quân Úc chiếm đóng Timor thuộc Bồ Đào Nha, nhưng sớm bị quân Nhật áp đảo. Bồ Đào Nha giành lại được kiểm soát Đông Timor sau khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945.[38]

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ kinh tế xã đoàn ngày càng lạc hậu, nhưng Salazar tiếp tục cố chấp mà đình trệ sự phát triển kinh tế lâu dài của Bồ Đào Nha.[39] Salazar cho phép khai phóng chính trị một phần. Phe đối lập được tổ chức hợp pháp, báo chí được tự do hơn. Tuy nhiên, các đảng đối lập vẫn bị nhà nước điều khiển, hạn chế và thao túng, cho nên không có một phe đối lập thống nhất.[40] Năm 1945, Salazar cho phép thành lập Phong trào Đoàn kết Dân chủ. Phong trào Đoàn kết Dân chủ tẩy chay cuộc bầu cử ngày 18 tháng 11 năm 1945, Salazar thắng cử.[41] Năm 1949, Bồ Đào Nha trở thành một thành viên sáng lập của NATO.

Năm 1951, Tổng thống Óscar Carmona qua đời sau 25 năm tại chức, được Francisco Craveiro Lopes kế nhiệm. Lopes không chịu cho Salazar tự quyết như Carmona và Salazar bị buộc phải từ chức vào năm 1958. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1958, Bộ trưởng Hải quân Américo Tomás, là ứng cứ viên của chính quyền đắc cử 52.6% số phiêu bầu, Tướng Humberto Delgado là ứng cử viên đối lập là chỉ giành được 25% số phiếu bầu.[42] Chẳng mấy ai nghĩ rằng cuộc bầu cử tự do và công bằng và sau này lộ ra bằng chứng rằng chính quyền đã nhồi thùng phiếu bằng phiếu bầu cho Tomás. Nguyên nhân là Delgao đã trả lời phóng viên rằng ông sẽ cách chức Salazar nếu đắc cử, biết rõ rằng quyền cách chức thủ tướng của tổng thống là giới hạn duy nhất đối với quyền lực của Salazar. Các cuộc mít-tinh của Delgado thu hút đám đông lớn. Sau cuộc bầu cử, Delgado bị tước quân hàm và phải xin tị nạn ở đại sứ quán Brasil trước khi trốn ra nước ngoài. Ông dành nhiều thời gian ở Brasil, về sau ở Algeria. Để đề phòng khả năng phe đối lập đắc cử tổng thống vào năm 1965, Salazar bỏ bầu cử trực tiếp, ra quy định mới rằng tổng thống do Quốc hội bầu.[43]

Ngày 23 tháng 1 năm 1961, sĩ quan Henrique Galvão chỉ huy vụ cướp tàu hành khách Santa Maria. Galvão có ý định là sẽ lái tàu đến Angola để thành lập chính quyền đối lập ở Luanda. Về mặt tuyên truyền chống chế độ thì Galvão thành công, tuy một người bị giết. Galvão chịu thả các hành khách để xin tị nạn chính trị ở Brasil.[44]

Năm 1962, chính quyền vì lo sợ tư tưởng dân chủ và cộng sản ngày càng phổ biến trong giới sinh viên mà bắt đầu trấn áp các phong trào sinh viên. Một vài hội sinh viên bị giải tán. Hầu hết các hội viên đều ủng hộ phe đối lập, sẵn sàng dùng vũ lực, có nhiều hội viên theo cộng sản. Các nhà hoạt động chống chính quyền hay bị mật thám điều tra, bắt bớ. Tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội mà sinh viên hoặc bị bỏ tù hoặc bị chuyển tới trường đại học khác để phá vỡ mạng lưới đối lập và cơ cấu lãnh đạo. Giới sinh viên biểu tình đáp trả, có Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha bí mật ủng hộ mạnh. Ngày 24 tháng 3, sinh viên tổ chức các cuộc biểu tình lớn ở Lisboa, bị cảnh sát bạo động trấn áp dữ dội. Marcelo Caeano, vị hiệu trưởng Đại học Lisboa từ chức.

Hàng trăm nghìn người Bồ Đào Nha di cư mỗi năm để tìm việc làm ở nước ngoài mà trốn quân dịch ở các thuộc địa của Bồ Đào Nha. Trong hơn 15 năm, gần một triệu người định cư ở Pháp, một triệu người định cư Hoa Kỳ, hàng trăm nghìn người định cư ở Đức, Thụy Sĩ, Anh, Luxembourg, VenezuelaBrasil. Những đảng bị chính quyền giải thể được tái lập ở nước ngoài, như Đảng Xã hội chủ nghĩa. Chỉ có Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha tiếp tục hoạt động bí mật trong nước.

Năm 1964, Delgado thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Bồ Đào Nha ở Roma, tuyên bố chỉ binh biến mới lật đổ được Nhà nước Mới. Nhiều người khác kêu gọi khởi nghĩa toàn quốc.[45] Delgado và thư ký người Brasil của ông, Arajaryr Moreira de Campos bị mật thám Bồ Đào Nha ám sát vào ngày 13 tháng 2 năm 1965 ở Tây Ban Nha.

Vài học giả bảo thủ người Bồ Đào Nha nhận định,[13] chính sách của Salazar ổn định tình hình chính trị, tài chính, lập lại nền trị an xã hội và giúp phát triển kinh tế sau thời kỳ bất ổn, hỗn loạn của nền Đệ nhất Cộng hòa. Những nhà sử học khác thì[46] chỉ ra rằng chính sách từ thập kỷ 30 đến thập kỷ 50 dẫn đến đình trệ kinh tế, xã hội và di cư tràn lan, biến Bồ Đào Nha thành một trong những nước nghèo nhất ở châu Âu, có tỷ lệ mù chữ cao hơn các nước láng giềng ở Bắc Bán cầu.

Năm 1968, Salazar bị đột quỵ. Vì xét rằng Salazar gần đất xa trời nên Tomás bổ nhiệm Marcelo Caetano làm thủ tướng mà không báo ông biết. Salazar mất năm 1970 tin rằng mình vẫn là thủ tướng. Nhiều người mong Caetano sẽ cải cách chế độ một phần và hiện đại hóa nền kinh tế. Caetano thi hành các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng phúc lợi xã hội, như cấp lương hưu cho công nhân nông thôn không có cơ hội tham gia đóng bảo hiểm xã hội. Vài dự án quy mô toàn quốc được khởi công, như nhà máy lọc dầu lớn ở Sines. Ban đầu, nền kinh tế tăng trưởng tích cực, nhưng vài vấn đề nghiêm trọng nổi lên vào thập kỷ 70, một phần do lạm phát phi mã và hậu quả của khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Tuy nhiên, khủng hoảng dầu mỏ có thể đã có lợi cho Bồ Đào Nha bởi chính quyền đang nhanh chóng khai thác các trữ lượng dầu chưa khai thác ở AngolaSão Tomé và Príncipe.

Tuy Caetano cơ bản ủng hộ chế độ độc tài, nhưng có vài chính sách để khai phóng chính quyền. Ông tăng tự do ngôn luận, báo chí chút ít. Tuy nhiên, một bộ phận lớn người dân vẫn bất mãn đối với chế độ do được sinh ra sau thời kỳ bất ổn của nền Đệ nhất Cộng hòa và cũng thất vọng rằng Caetano không chịu cho đa đảng tranh cử. Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 1969 và năm 1973, Liên minh Toàn quốc chiếm được mọi ghế theo thường lệ. Các ứng cử viên đối lập đều bị đàn áp dã man. Cải cách thì ít mà Caetano thì phải kiệt lực vận động phe bảo thủ cho phép, nhất là Tomás. Caetano không được Tomás cho tự quyết chính sách như Salazar. Năm 1973, Tomás và các phần tử bảo thủ khác trong chính quyền cho dừng cải cách.

Kinh tế

Salazar quan sát mô hình Cầu Santa Clara của Edgar CardosoCoimbra

Vấn đề hơn hết của Bồ Đào Nha vào năm 1926 là khoản nợ công khổng lồ. Salazar vài lần từ chối chức bộ trưởng tài chính giữa năm 1926 và 1928, lấy lý do sức khỏe kém, phụng sự chăm sóc cha mẹ già và thích lối sống học thuật ẩn dật. Năm 1927 khi Sinel de Cordes làm bộ trưởng, nợ công tiếp tục tăng, chính phủ cố vay từ Baring Brothers, có Hội vạn quốc tán thành, nhưng các yêu cầu thì không thể chấp nhận được. Khi Bồ Đào Nha có nguy cơ sụp đổ tài chính, Salazar cuối cùng đồng ý làm Bộ trưởng tài chính thứ 81 vào ngày 26 tháng 4 năm 1928 sau khi Óscar Carmona đắc cử Tổng thống.Tuy nhiên trước khi nhậm chức, Salazar có Carmona bảo đảm tuyệt đối ông được tự do phủ quyết chi tiêu của mọi bộ chính phủ, không chỉ bộ tài chính. Từ đó, Salazar trở thành sa hoàng tài chính.

Trong vòng một năm, có quyền hành đặc biệt, Salazar cân bằng ngân sách và ổn định hóa quốc tệ của Bồ Đào Nha, có được thặng dư ngân sách đầu tiên của nhiều sau khi khôi phục trật tự với chi thu quốc gia và thi hành các biện pháp thắt lưng buộc bụng, là mới mẻ vô tiền ở Bồ Đào Nha.[47]

Tháng 7 năm 1940, tạp chí Hoa Kỳ Life xuất bản một bài về Bồ Đào Nha, nhận định khi bàn về lịch sự hỗn loạn gần đây "bất kỳ ai thấy Bồ Đào Nha 15 năm trước có thể đã nói nó đáng chết đi. Cai trị thì gớm ghiếc, phá sản, dơ dáy, đầy rẫy bệnh tật và nghèo nàn, lộn xộn đến mức Hội vạn quốc lập từ mới để mô tả sự thấp bậc nhất về phúc lợi quốc gia: "Bồ Đào Nha". Rồi sau Lục quân lật đổ Nước cộng hòa đã khiến nước nhà lâm vào tình trạng đáng thương này." Tờ Life thêm rằng để trị Bồ Đào Nha Nha thì khó và giải thích Salazar "lĩnh một đất nước hỗn loạn, nghèo đói" mà sau cải cách được.[48]

  Quốc gia thành viên Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu từ năm 1995
  Cựu nước thành viên, hiện tại thành viên Liên minh châu Âu. Bồ Đào Nha gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu năm 1986 (hiện tại là Liên minh châu Âu), rời Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu sau khi làm thành viên sáng lập vào năm 1960.

Từ năm 1950 đến khi Salazar qua đời năm 1970, GDP đầu người tăng ở mức hàng năm 5.7%. Trong đầu thập niên 60, các nhà kỹ trị xuất hiện có kinh nghiệm kinh tế học và chuyên môn kỹ thuật-công nghiệp, dẫn đến thời kỳ phát triển kinh tế mới, Bồ Đào Nha trở thành nước hấp dẫn với đầu tư quốc tế. Phát triển công nghiệp, kinh tế tiếp tục trong suốt thập niên 60. Trong nhiệm kỳ của Salazar, Bồ Đào Nha tham gia thành lập Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu năm 1960 và Tổ chức Kinh hợp năm 1961, trong đầu thập niên 60 cũng ký kết Tổng hiệp định Mậu dịch và Quan thuế, gia nhập Quỹ tiền tệ quốc tếNgân hàng thế giới; đánh dấu sự bắt đầu của chính sách kinh tế hướng ngoại hơn của Salazar. Ngoại thương tăng 52% về xuất khẩu và 40% về nhập khẩu. Phát triển kinh tế và mức hình thành tư bản trong thời kỳ 1960-1973 biểu trưng bằng suất tăng trưởng GDP hàng năm vô tiền 6.9%, sản xuất công nghiệp 9%, tiêu thụ tư nhân 6.5% và tổng vốn cố định 7.8%.[6]

Năm 1960 khi Salazar bắt đầu thi hành chính sách kinh tế hướng ngoại hơn, GDP đầu người của Bồ Đào Nha chỉ là 38% trung bình Cộng đồng châu Âu (EC-12), cuối thời kỳ Salazar năm 1968 thì đã tăng đến 48%, năm 1973 có Marcelo Caetano lãnh đạo thì đạt được 56.4% trung bình EC-12.[7] Nhìn một cách tổng quát, sau thời kỳ phân kỳ kinh tế dài trước năm 1914, sau một thời gian hỗn lão của Nước cộng hòa thứ nhất, nền kinh tế Bồ Đào Nha hồi phục chút ít cho đến năm 1950, sau phát triển mạnh, hội tụ kinh tế với các nước giàu nhất Tây Âu cho tới cuộc Cách mạng Cẩm chướng tháng 4 năm 1974.[8] Phát triển kinh tế Bồ Đào Nha từ năm 1960 đến 1973 trong chế độ Tân Quốc (ngay cả với hậu quả của cuộc chiến đắt đỏ ở các lãnh thổ châu Phi chống các nhóm du kích độc lập) tạo cơ hội thật sự hội nhập với các nền kinh tế phát triển của Tây Âu. Bằng di cư, buôn bán, du lịch và đầu tư hải ngoại, các cá nhân và công ty thay đổi xu hướng sản xuất và tiêu thụ mà làm thành thay đổi cơ cấu. Cùng lúc, sự phức tạp gia tăng của nền kinh tế đang phát triển tạo các thử thách kỹ thuật và tổ chức mới, kích thích việc hình thành các nhóm quản lý, chuyên nghiệp hiện đại.[49]

Chi tiêu quân sự Bồ Đào Nha trong Chiến tranh thực dân: OFMEU – Ngân sách quốc gia cho Chi tiêu quân sự hải ngoại; *conto – từ phổ biến cho "1000 $ (PTE)"

Về các lãnh thổ hải ngoại, ngoài các biện pháp quân sự thì Bồ Đào Nha phản ứng "làn gió thay đổi" ở các thuộc địa châu Phi bằng cách kết hợp chặt chẽ hơn với đại lục về mặt hành chính và kinh tế, bằng trao đổi dân số và tư bản, tự do hóa mậu dịch và quy định đồng tiền chung tên là Khu vực Escudo. Kế hoạch kết hợp vạch ra năm 1961 ấn định Bồ Đào Nha phải gỡ bỏ quan thuế với nhập khẩu từ lãnh thổ hải ngoại không trễ hơn tháng 1 năm 1964, các thuộc địa thì được tiếp tục áp thuế với hàng nhập khẩu từ Bồ Đào Nha, nhưng ở suất thiên vị, trong hầu hết các trường hợp là 50% của thuế bình thường áp với hàng hóa bắt nguồn từ ngoài Khu Escudo, nghĩa là xuất khẩu Bồ Đào Nha được tiếp cận thị trường thuộc địa một cách thiên vị. Nền kinh tế của các thuộc địa hải ngoại đặc biệt của AngolaMozambique bùng nổ.

Các thuộc địa hải ngoại Bồ Đào Nha trong thời kỳ Tân Quốc: AngolaMozambique là hai thuộc địa lớn nhất

Việc tự do hóa nền kinh tế Bồ Đào Nha có động lực mới trong thời hậu nhiệm Salazar, Thủ tướng Marcello José das Neves Caetano (1968-1974), chính quyền bãi bỏ các yêu cầu giấp phép công nghiệp đối với công ty trong hầu hết các lĩnh vực, năm 1972 ký hiệp định mậu dịch tự do với Cộng đồng châu Âu mới khuếch trương. Hữu hiệu đầu năm 1973, Bồ Đào Nha kỳ đến năm 1980 phải bãi bỏ hạn chế với hầu hết các hàng hóa cộng đồng, đến năm 1985 với các mặt hàng bí mật nhất định cấu thành 10% tổng số xuất khẩu Cộng đồng châu Âu đến Bồ Đào Nha. Bắt đầu năm 1960, tư cách thành viên Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu cùng các nhà đầu tư nước ngoài hiện diện giúp Bồ Đào Nha hiện đại hóa công nghiệp và đa dạng hóa xuất khẩu giữa năm 1960 và 1973. Caetano thúc đẩy phát triển kinh tế và cải tiến xã hội như cấp lương hưu cho công nhân nông thôn không hề có cơ hội trả tiền an sinh xã hội. Có vài việc đầu tư lớn ở cấp quốc gia như xây dựng trung tâm chế biến dầu lớn ở Sines.

Bất kể các phương tiện sản xuất tập trung vào tay một số nhỏ nhóm tài chính-công nghiệp dựa vào gia đình, văn hóa kinh doanh Bồ Đào Nha cho phép các cá nhân giáo dục đại học có hoàn cảnh trung lưu thượng tiến lên các ngành nghề quản lý chuyên nghiệp.

Trước Cách mạng Cẩm chướng năm 1974, các công ty lớn, tiên tiến công nghệ nhất (và có tổ chức gần đây nhất) cung cấp cơ hột tốt nhất cho ngành nghề quản lý dựa theo năng lực thay vì quan hệ con ông cháu cha.

Đầu thập niên 70, sự phát triển kinh tế nhanh chóng, mức tiêu thụ cùng mua xe gia tăng của Bồ Đào Nha ưu tiên việc cải thiện giao thông vận tải. Chính quyền cho Brisa – Autoestradas de Portugal ưu huệ 30 năm thiết kế, xây dựng, quản lý và duy trì hệ thống đường cao tốc hiện đại.

Nền kinh tế Bồ Đào Nha và các thuộc địa hải ngoại trước thềm Cách mạng Cẩm chướng (cuộc đảo chính quân sự ngày 25 tháng 4 năm 1974) phát triển hơn hẳn mức trung bình châu Âu. Sức mua gia đình trung bình gia tăng cùng với các xu hướng tiêu thụ mới, xúc tiến đầu tư máy móc mới lẫn tiêu thụ hàng dân dụng bền và không bền.

Chính sách kinh tế của chế độ Tân Quốc khuyến khích và tạo dựng các điều kiện cho các tập đoàn lớn, thành công thành lập. Về mặt kinh tế, chính quyền duy trì chính sách xã đoàn để một phần lớn nền kinh tế Bồ Đào Nha trong tay một vài tập đoàn mạnh, bao gồm do các gia đình của António Champalimaud (Banco Pinto & Sotto Mayor, Cimpor), José Manuel de Mello (CUF – Companhia União Fabril, Banco Totta & Açores), Américo Amorim (Corticeira Amorim) và dos Santos (Jerónimo Martins); các tập đoàn đều có mô hình kinh doanh giống như keiretsuszaibatsus Nhật Bản. Companhia União Fabril (CUF) là một trong các tập đoàn lớn và đa dạng nhất, có các nghiệp vụ cốt lõi như xi măng, hóa chất, hóa dầu, hóa chất nông nghiệp, vải, bia, thức uống, luyện kim, kỹ thuật hải quân, kỹ thuật điện, bảo hiểm, ngân hàng, giấy, du lịchkhai thác mỏ, và trụ sở công ty ở đại lục Bồ Đào Nha, nhưng cũng có các chi nhánh, nhà máy cùng vài dự án kinh doanh phát triển khắp Đế quốc, đặc biệt ở AngolaMozambique. Các công ty gia đình vừa khác chuyên môn về vải (như ở thành phố Covilhã và miền đông tây), gốm sứ, kính và thủy tinh (như ở Alcobaça, Caldas da Rainha and Marinha Grande), gỗ kỹ thuật (như SONAE gần Porto), cá hộp (như Algarve và miền đông tây), thức ăn và đồ uống (thức uống cồn, từ rượu như Licor Beirão và Ginjinha đến bia như Sagres, sản xuất khắp nước, nhưng rượu vang là một trong thức uống cồn nổi tiếng và xuất khẩu nhiều nhất), du lịch (có cơ sở vững chắc ở Estoril/Cascais/Sintra và đang phát triển làm điểm thu hút quốc tế ở Algarve từ thập niên 60) và nông nghiệp (như các công ty rải rác quanh Alentejo, biết đến là vùng ngũ cốc của Bồ Đào Nha) hoàn tất nền kinh tế quốc dân đầu thập niên 70. Ngoài ra, dân số nông thôn theo sát chủ nghĩa nông nghiệp, rất quan trọng đối với đa số tổng dân số, có nhiều gia đình sống chỉ bằng nghề nông hay bổ sung tiền lương bằng nông nghiệp, chăn nuôi và lâm sản.

Các nền kinh tế của thuộc địa hải ngoại cũng có mức tăng trưởng và phát triển ấn tượng từ thập niên 20 trở đi. Thậm chí trong Chiến tranh Thực dân Bồ Đào Nha (1961-1974) là cuộc chiến phản du kích chống các nhóm du kích độc lập và khủng bố, AngolaMozambique (đương thời là Tỉnh hải ngoại) có suất tăng trưởng kinh tế liên hồi, vài lĩnh vực đang bùng nổ, là các trung tâm nổi tiếng quốc tế về sản xuất dầu, cà phê, bông, hạt điều, dừa, gỗ, khoáng sản (như kim cương), kim loại (như sắt và nhôm), chuối, cam quýt, trà, thùa sợi, bia (Cuca và Laurentina là các hãng bia thành công sản xuất địa phương), xi măng, cá và các hải sản khác, thịt bò và vải. Du lịch cũng là ngành phát triển nhanh ở châu Phi thuộc Bồ Đào Nha vì các khu nghỉ dưỡng biển cùng khu bảo tồn động vật hoang dã phát triển nhanh mà lại có nhu cầu. Trong khi chiến tranh thắng ở Angola, nhưng ít kiểm soát hơn ở Mozambique và bế tắc nguy hiểm ở Guinea từ góc nhìn của Bồ Đào Nha, nên chính quyền quyết định dùng các chính sách bền vững để có được nguồn tài chính cho chiến tranh lâu dài. Ngày 13 tháng 11 năm 1972, một quỹ đầu tư quốc gia thành lập bằng Sắc luật Decreto-Lei n.º 448/ /72 và nghị định Portaria 696/72 của Bộ quốc phòng, để tài trợ nỗ lực chống du kích ở các thuộc địa.[50] Ngoài ra, các Sắc luật mới (Sắc luật: Decretos-Leis n.os 353, de 13 de Julho de 1973, e 409, de 20 de Agosto) thi hành để cắt giảm chi tiêu quân sự và tăng số sĩ quan bằng cách sát nhập dân quân không chính quy như thể là quân quan bình thường.[51][52][53][54]

Công đoàn không được thành lập và không có chính sách lương tối thiểu. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng tạo tình hình sinh sống tốt hơn cho dân số trong thập niên 60, chiến tranh thực dân ở châu Phi bùng nổ dẫn đến thay đổi xã hội lớn, bao gồm phụ nữ gia nhập thị trường lao động ngày càng nhiều. Marcelo Caetano đi tạo dựng tăng trưởng kinh tế vài cải cách xã hội như cấp lương hưu cho công nhân nông thôn không hề có cơ hội trả tiền an sinh xã hội, mục đích của cải cách lương hưu có ba chân: cải thiện công bằng, giảm mất cân đối tài khóa, nguy cơ và đạt được hiệu năng cao hơn cho tổng thể nền kinh tế, ví dụ bằng cách ấn định đóng góp ít bóp méo thị trường lao động hơn hay cho phép tiền tiết kiệm từ quỹ lương hưu tăng đầu tư vào nền kinh tế. Năm 1969, khi Marcelo Caetano lên thay Salazar, chính quyền Tân Quốc được một chút dân chủ hơn, Caetano cho phép việc thành lập phong trào công đoàn dân chủ đầu tiên từ thập niên 20.

Giáo dục

Tòa nhà chính Thư viện tổng hợp Đại học Coimbra – Edifício Novo (Tân Kiến, 1962) ở Alta Universitária, Coimbra

Tuy các phần tử quá khích của Nước cộng hòa thứ nhất chọn giáo dục làm một trong các sự nghiệp chính, bằng chứng cho thấy không thành công bằng chuyên chế Tân Quốc trong việc mở rộng giáo dục tiểu học, mức biết chữ của trẻ em từ 7 đến 14 tuổi chỉ tăng từ 26% năm 1911 đến 33% năm 1930, trong khi tăng đến 56% năm 1940, 77% năm 1950 và 97% năm 1960.[55]

Các yếu tố bắt buộc trong trường tiểu học trong thời kỳ Tân Quốc: cây thánh giá và hai bức chân Salazar và Américo Tomás

Trong thời kỳ Tân Quốc từ năm 1930 đến 1940, số lượng trường tiểu học tăng từ 27,000 đến 40,000 và suất biết chữ tăng từ 39.2% đến 59.6% giữa năm 1930 và 1950, trong khi chỉ tăng từ 29.7% đến 39.2% từ năm 1911 đến 1930 trong thời kỳ Nước cộng hòa thứ nhất.[56]

Instituto Superior Técnico, trường kỹ thuật trứ danh và lớn nhất ở Bồ Đào Nha, xây dựng năm 1937

Năm 1952, Kế hoạch Giáo dục phổ thông rộng lớn, đa bước bắt đầu thi hành để cuối cùng tiêu diệt nạn mù chữ và cho mọi trẻ em tuổi đi học đến trường, bao gồm phạt tiền cha mẹ không tuân thủ và được thực hiện nghiêm ngặt. Cuối thập niên 50, Bồ Đào Nha trèo ra được vực thẳm giáo dục: nạn mù chữ trong trẻ em tuổi đi học hầu như biến mất.[4][5]

Suất biết chữ 1900 1911 1920 1930 1940 1950 1960
Trẻ em 7-14 tuổi 20% 26% 31% 33% 56% 77% 97%

Trong thập niên 60, Bồ Đào Nha thành lập đại học ở Angola và Mozambique (Đại học Luanda và Đại học Lourenço Marques trong nhiệm kỳ Adriano Moreira làm Bộ trưởng Tỉnh hải ngoại), công nhận Đại học Thiên chúa giáo Bồ Đào Nha năm 1971 và lập một loạt các đại học quốc quản khắp đại lục Bồ Đào Nha (Đại học Minho, Tân đại học Lisbon, Đại học Évora và Đại học Aveiro—Veiga Simão là Bộ trưởng giáo dục đương thời). Ngoài ra, đại học Lisbon và Coimbra lâu đời được khuếch trương và hiện đại hóa trong thập niên 60, cơ sở và khuôn viên mới được xây dựng như Cidade Universitária (Lisbon) và Alta Universitária (Coimbra).

Khuôn viên Đại học Lisbon

Hai thập kỷ cuối của chế độ Tân Quốc từ thập niên 60 đến Cách mạng Cẩm chướng năm 1974 có đầu tư mạnh vào nền giáo dục trung học và đại học được một trong các suất tăng trưởng nhanh nhất trong lịch sử giáo dục Bồ Đào Nha đến hiện tại. Tuy song song với phát triển mạnh về nhập học sau tiểu học ở các khu đô thị lớn, nhưng vẫn có khoảng cách lớn mà lấp đầy trong các năm sau vì ít thời gian mà vượt qua vị trí bất lợi từ đầu. Nền giáo dục trung học được quần chúng hóa chỉ cuối thập niên 70 và 80, nên tới Cách mạng Cẩm chướng năm 1974 thì mù chữ đã lùi bước, nhưng biết chữ kém vẫn cao so với các tiêu chuẩn cao nhất ở hầu hết các nước phát triển trong thế giới.

Egas Moniz là bác sĩ Bồ Đào Nha phát minh chụp mạch máu não và phẫu thuật thùy não được Giải thưởng Nobel về Sinh lý học hay Y học năm 1949, đến hiện tại vẫn là người Bồ Đào Nha duy nhất đắc giải Nobel về khoa học.

Chính quyền sụp đổ

Huy hiệu Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha
Huy hiệu Tỉnh Angola hải ngoại
Đài kỷ niệm ở sân nhà thờ Cemitério dos Prazeres tại Lisbon cho một trong nhiều hành động chống chính quyền Salazar; Hành động Vagô phân phát các tờ rơi trong vài thành phố Bồ Đào Nha từ máy bay TAP năm 1961. Dòng chữ ghi: "Khi chuyên chính là hiện thật, cách mạng là quyền lợithe."
Huy hiệu Tỉnh Guinea hải ngoại
Huy hiệu Tỉnh Mozambique hải ngoại
Huy hiệu Timor thuộc Bồ Đào Nha[57]

Sau khi Ấn Độ giành được độc lập năm 1947 trong nhiệm kỳ chính phủ Attlee, dân cư thân Ấn Độ của thuộc địa Dadra và Nagar Haveli tự giải phóng khỏi cai trị Bồ Đào Nha năm 1954.[58] Năm 1961, việc Nước cộng hòa Dahomey sát nhập Pháo đài São João Baptista de Ajudá bắt đầu quá trình dẫn đến Đế quốc Bồ Đào Nha vài thập kỷ bị giải tán, theo thống kê dân số năm 1921, São João Baptista de Ajudá có năm dân cư, chỉ hai đại diện chủ quyền Bồ Đào Nha khi chính phủ Dahomey trình tối hậu thư. Bồ Đào Nha buộc phải rút khỏi một thuộc địa khác tháng 12 năm 1961 khi không chịu trả các thuộc địa Goa, Daman và Diu, dẫn đết xung đột vũ trang ở Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha giữa lục quân, hải quân Bồ Đào Nha và Quân đội Ấn Độ, quân phòng thủ Bồ Đào Nha thua và buộc phải đầu hàng. Kết quả là mất thuộc địa còn lại ở tiểu lục địa Ấn Độ, nhưng chính quyền Bồ Đào Nha từ chối công nhận chủ quyền Ấn Độ với lãnh thổ sát nhập vẫn tiếp tục có đại biểu trong Quốc hội. "Làn gió Thay đổi" phi thực dân hóa bắt đầu ảnh hưởng đế quốc và chính quyền sụp đổ kể từ các cuộc nổi dậy ở thuộc địa châu Phi trong thập niên 60. Các phong trào độc lập ở Angola, MozambiqueGuinea được Hoa Kỳ lẫn Liên Xô ủng hộ, đều muốn tiêu diệt mọi đế quốc thực dân và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình.

Đối với chính quyền Bồ Đào Nha, đế quốc hải ngoại là một vấn đề quyền lợi quốc gia và bác bỏ chỉ trích kỳ thị chủng tộc ở thuộc địa châu Phi, lập luận rằng người châu Phi sẽ được Tây hóađồng hóa theo thời gian bằng quá trình văn minh hóa. Các cuộc chiến ảnh hưởng Bồ Đào Nha như Chiến tranh Việt Nam với Hoa Kỳ hay Chiến tranh Afghanistan với Liên Xô, đều không phổ biến, đắt đỏ và cô lập Bồ Đào Nha về mặt ngoại giao, khiến nhiều người nghi ngờ tiếp tục chiến tranh và sự tồn vong của chính quyền. Tuy Bồ Đào Nha duy trì được ưu thế ở thuộc địa bằng lính nhảy dù và đặc nhiệm cao cấp, sự tán trợ nước ngoài bao gồm cấm vận vũ trang và trừng phạt khác chống Bồ Đào Nha làm lính du kích cơ động hơn mà gây tổn thất lớn hơn lên lục quân Bồ Đào Nha. Cộng đồng quốc tế cô lập Bồ Đào Nha vì Chiến tranh thực dân lâu dài, tình hình thêm trầm trọng bởi bệnh tật của Salazar năm 1968, là lãnh đạo chính quyền. Hậu nhiệm Marcelo Caetano là một trong những cố vấn quan trọng nhất cố từ từ dân chủ hóa đất nước, nhưng không giấu được chế độ độc tài áp bức Bồ Đào Nha; Salazar qua đời năm 1970.

Sau khi dành những năm tháng thánh chức đầu ở châu Phi, mục sư Anh Adrian Hastings tạo cơn bão năm 1973 bằng bài viết trong tờ The Times về "Thảm sát Wiriyam"[59] ở Mozambique, tiết lộ rằng Lục quân Bồ Đào Nha sát hại 400 dân làng tại làng Wiriyamu gần Tete tháng 12 năm 1972. Báo cáo xuất bản một tuần trước khi Marcelo Caetano công du Anh để kỉ niệm tròn năm thứ 600 Liên minh Anh-Bồ Đào Nha. Sự cô lập ngày càng tăng của Bồ Đào Nha sau báo cáo của Hastings thường dẫn làm yếu tố cho cuộc đảo chính "cẩm chướng" lật đổ chính quyền Caetano năm 1974.[60]

Các xung đột buộc chính quyền Salazar và Caetano sau phải dành nhiều ngân sách hơn cho chính quyền thuộc địa và chi tiêu quân sự, sớm Bồ Đào Nha ngày càng cô lập khỏi thế giới. Sau khi Caetano kế nhiệm thủ tướng, chiến tranh thực dân trở thành nguyên nhân đối lập chính và điểm trọng tâm cho các lực lượng chống chính phủ trong xã hội. Các nhà đối lập trẻ như sinh viên tả khuynh và nhà hoạt động phản chiến buộc phải di cư để tránh bị bỏ tù hay quân dịch. Tuy nhiên, giữa năm 1945 và 1974, cũng có ba thế hệ phần tử cực hữu quá khích trong nền giáo dục Bồ Đào Nha, theo chủ nghĩa dân tộc cách mạng một phần bị văn hóa tân phát xít ngầm châu Âu ảnh hưởng, chuyên chú tuyệt đối bảo vệ Đế quốc Bồ Đào Nha trong thời kỳ chuyên chính.[61]

Đầu thập niên 70, Chiến tranh thực dân Bồ Đào Nha tiếp tục cháy, chi tiêu tiếp tục tăng. Quân đội Bồ Đào Nha bị quá sức và không hề có giải pháp chính trị hay kết thúc trong tầm mắt. Tuy tổn thất nhân mạng tương đối nhỏ, chiến tranh đã bước sang thập kỷ thứ hai, chính quyền Tân Quốc bị cộng đồng quốc tế chỉ trích và ngày càng cô lập. Hàng ngàn trai tráng né quân dịch bằng cách di cư phi pháp, chủ yếu đến Pháp và Hoa Kỳ.

Chiến tranh ở các thuộc địa ngày càng bất phổ biến trong nước khi người dân trở nên mệt mỏi với cuộc chiến và bất bình với chi phí mỗi ngày một tăng. Nhiều người gốc Bồ Đào Nha tại các thuộc địa sẵn lòng chấp nhận độc lập nếu địa vị kinh tế duy trì được. Tuy nhiên, bất kể các cuộc tấn công bất thình lình và rải rác chống mọi mục tiêu khắp miền nông thôn của quân du kích, nền kinh tế của Angola lẫn Mozambique đang bùng nổ, thành phố và thị trấn được mở rộng và phát đạt đều đều theo thời gian, các mạng lưới vận tải mới được mở để liên kết dải ven biển phát triển và đô thị cao với các khu vực xa xôi nội địa và số dân di cư gốc Bồ Đào Nha châu Âu từ đại lục (metrópole) tăng nhanh chóng kể từ thập niên 50 (dù luôn chỉ là thiểu số nhỏ của dân số mỗi thuộc địa).[62]

Đột ngột, sau vài nỗ lực quân loạn thất bại, tháng 4 năm 1974, Cách mạng Cẩm chướngLisbon do các sĩ quan tả khuynh lấy tên Phong trào Quân đội lật đổ chính quyền Tân Quốc. Cuộc đảo chính quân sự có thể xét là cách cần thiết để khôi phục dân chủ ở Bồ Đào Nha, chấm dứt Chiến tranh thực dân không phổ biến buộc hàng ngàn người phải nhập ngũ và thay thế chuyên chính Estado Novo (Tân Quốc) cùng cảnh sát bí mật đàn áp tự do công dân, chính trị cơ bản. Tuy nhiên, gốc của chính biến[63] nằm ở biểu tình phản đối sắc luật Dec. Lei nº 353/73 năm 1973[64] do các đại úy quân đội khởi xướng. Các sinh viên tốt nghiệp quân hiệu ghét chương trình của Marcello Caetano, theo đó sĩ quan hoàn thành khóa huấn luyện ngắn và đã phục vụ trong các chiến dịch phòng thủ ở thuộc địa có thể được ủy nhiệm cùng quân hàm như sinh viên tốt nghiệp, chính quyền đã bắt đầu thi hành (bao gồm vài cải cách khác) để tăng số sĩ quan chống nổi loạn ở châu Phi và cắt giảm chi tiêu quân sự để cố cân bằng ngân sách nước nhà quá tải. Sau cuộc đảo chính, Chính phủ quân sự Cứu quốc do Phong trào lãnh đạo lên nắm quyền, Caetano từ chức và bị bay giam đến Madeira mà ở vài ngày, sau lưu vong ở Ba Tây.[65] Năm 1975, Đế quốc Bồ Đào Nha hoàn toàn sụp đổ.

Hậu quả

Bồ Đào Nha trải qua thời kỳ hỗn loạn, tê liệt chính quyền giống như nền Đệ nhất Cộng hòa. Các chính phủ lâm thời cũng kiểm duyệt báo chí và giam giữ nhà đối lập trong thời gian ngắn. Nhà sử học Kenneth Maxwell nhận xét rằng, vì nhiều lý do, Bồ Đào Nha trong thời kỳ chuyển giao giống Nicaragua hơn bất kỳ nước Nam Mỹ nào khác.[66] Trong những tháng ngày cuối cùng của Tây Ban Nha thời Franco, chính quyền cân nhắc xâm lược Bồ Đào Nha để kiểm soát nguy cơ cộng sản từ Cách mạng Cẩm chướng.[67]

Sau thời gian náo động xã hội, đảng phái và bất định trong chính trị Bồ Đào Nha giữa năm 1974 và 1976, cả hai phe cực tả lẫn cực hữu đều không thắng. Tuy nhiên, các yếu tố thân cộng sản và xã hội chủ nghĩa kiểm soát đất nước trong vài tháng trước cuộc bầu cử. Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha của Álvaro Cunhal vẫn có lập trường Stalin và không đồng ý với các cải cách lấy tên "Chủ nghĩa cộng sản châu Âu" ở các nước Tây Âu khác.[68]

Vì rút khỏi các thuộc địa và chấp nhận các yêu cầu độc lập dẫn đến các nước cộng sản năm 1975 (cụ thể là Nước cộng hòa Nhân dân AngolaNước cộng hòa Nhân dân Mozambique), công dân Bồ Đào Nha từ các thuộc địa phải di cư hàng loạt,[69][70] làm thành hơn một triệu dân tị nạn. Năm 1975, mọi thuộc địa châu Phi đều được độc lập và Bồ Đào Nha tổ chức cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên trong 50 năm, tuy nhiên chính quyền quân dân lâm thời tiếp tục trị nước cho đến cuộc bầu cử lập pháp năm 1976.

Đối với Bồ Đào Nha và các thuộc địa cựu, đây là thời kỳ rất khó khăn, nhưng nhiều người cảm thấy các hậu quả ngắn hạn rất đáng khi dân quyền, tự do chính trị được khôi phục. Bồ Đào Nha kỷ niệm Ngày Tự do vào ngày 25 tháng 4 mỗi năm, là ngày lễ quốc gia trong nước.

Vì từ chối trao độc lập cho các thuộc địa hải ngoại ở châu Phi nên chính quyền Tân Quốc bị cộng đồng quốc tế chỉ trích, các lãnh đạo như Salazar và Caetano bị tố là mù trước "Làn gió Thay đổi". Sau Cách mạng Cẩm chướng năm 1974 và chuyên chính sụp đổ, gần như mọi thuộc địa ngoài châu Âu được đối lập. Với chính quyền, việc giữ các thuộc địa là vấn đề quyền lợi quốc gia.

Xem thêm

Chú thích

  1. ^ Trước Thế chiến thứ hai, Salazar tuyên bố: "Chúng tôi phản đối mọi hình thức chủ nghĩa quốc tế, cộng sản, xã hội, nghiệp đoàn và bất kỳ thứ gì có thể chia rẽ, giảm thiểu hay tiêu hủy gia đình. Chúng tôi chống chiến tranh giai cấp, vô thần và bất trung với nước; chống chế độ nông nô, nhân sinh quan duy vật và lực thắng đúng". Salazar chỉ trích chuyên chính Phát xít mà theo quan điểm nghiêng về tà đạo Caesar và có khuynh hướng chính quyền chẳng công nhận giới hạn của trật tự đạo đức pháp lý.[2]
  2. ^ Đại sứ quán Anh ở Lisbon bấy giờ nhận xét: "Đại khái thì tân hiến pháp đang được sự chấp thuận đáng nhận. Học thuyết xã đoàn của hiến pháp có tính phát xít nhất định, là sự đảo ngược về thời trung cổ từ các học thuyết thế kỷ 18. Tuy không hợp với truyền thống Anglo-Saxon của ta, nhưng lại không bất thường trong đất nước bấy lâu nay xây dựng dân chủ theo triết lý Pháp và thấy không thích hợp với khí chất quốc gia". Đại sứ quán cũng chỉ ra rằng nạn mù chữ của Bồ Đào Nha làm bầu cử khó khăn và hão huyền.[22]

Tham khảo

  1. ^ Gallagher, Tom (1983). Portugal: A Twentieth-century Interpretation. Manchester University Press. pp. 60, 99. ISBN 978-0-7190-0876-4.
  2. ^ a b Kay 1970, tr. 68.
  3. ^ “Portugal não é um país pequeno: superfície do império colonial português comparada com a dos principais países da Europa, Penafiel, [ca 1935] - Biblioteca Nacional Digital”. purl.pt. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2011.
  4. ^ a b Candeias, António; Simoes, Eduarda (1999). “Alfabetização e escola em Portugal no século XX: Censos Nacionais e estudos de caso”. Análise Psicológica (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 17 (1): 163–194. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Candeias 1999 163–194” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  5. ^ a b Candeias, António (2004). Alfabetização e Escola em Portugal nos SÈculos XIX e XX. Os Censos e as Estatísticas (Lisboa, Fundação Calouste Gulbenkian)
  6. ^ a b Mattoso, José; Rosas, Fernando (1994). História de Portugal: o Estado Novo (bằng tiếng Bồ Đào Nha). VII. Lisbon: Estampa. tr. 474. ISBN 978-9723310863.
  7. ^ a b Linz, Juan J.; Linz, Professor Juan J.; Stepan, Alfred; Stepan, Wallace Sayre Professor Alfred (ngày 16 tháng 8 năm 1996). Problems of Democratic Transition and Consolidation: Southern Europe, South America, and Post-Communist Europe. JHU Press. tr. 128. ISBN 9780801851582 – qua Internet Archive. Financial crisis 1974 Portugal.
  8. ^ a b (tiếng Bồ Đào Nha) Fundação da SEDES – As primeiras motivações Lưu trữ 2012-03-19 tại Wayback Machine, "Nos anos 60 e até 1973 teve lugar, provavelmente, o mais rápido período de crescimento económico da nossa História, traduzido na industrialização, na expansão do turismo, no comércio com a EFTA, no desenvolvimento dos sectores financeiros, investimento estrangeiro e grandes projectos de infra-estruturas. Em consequência, os indicadores de rendimentos e consumo acompanham essa evolução, reforçados ainda pelas remessas de emigrantes.", SEDES Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “sedes.pt” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  9. ^ Perreira Gomes, Isabel; Amorim, José Pedro; Correira, José Alberto; Menezes, Isabel (ngày 1 tháng 1 năm 2016). “The Portuguese literacy campaigns after the Carnation Revolution (1974-1977)”. Journal of Social Science Education. 14 (2): 69–80. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  10. ^ Neave, Guy; Amaral, Alberto (ngày 21 tháng 12 năm 2011). Higher Education in Portugal 1974-2009: A Nation, a Generation (ấn bản thứ 2012). Springer Science & Business Media. tr. 95, 102. ISBN 978-9400721340. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  11. ^ Whitman, Alden (ngày 28 tháng 7 năm 1970). “Antonio Salazar: A Quiet Autocrat Who Held Power in Portugal for 40 Years”. New York Times. New York Times. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2018.
  12. ^ O Maior Português de Sempre – Oliveira Salazar (1ª Parte), Jaime Nogueira Pinto presents Salazar in O maior português de sempre (RTP)
  13. ^ a b História de Portugal. A luta de facções entre os salazaristas "Até os americanos já o tinham abandonado, temendo "recriar o caos que existia em Portugal antes de Salazar tomar o poder".", from História de Portugal (2009), Rui Ramos, Bernardo de Vasconcelos e Sousa, and Nuno Gonçalo Monteiro, Esfera dos Livros, cited in ionline.pt
  14. ^ Meneses 2009, tr. 162.
  15. ^ a b Kay 1970, tr. 63.
  16. ^ Wiarda 1977, tr. 97.
  17. ^ Wiarda 1977, tr. 98.
  18. ^ Kay 1970, tr. 53.
  19. ^ Gallagher 1990, tr. 167.
  20. ^ Wiarda 1977, tr. 88.
  21. ^ a b c Wiarda 1977, tr. 100.
  22. ^ *“British Embassy in Lisbon despatch on draft constitution”. Contemporary Portuguese History Online. The Contemporary Portuguese History Research Centre. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2015.
  23. ^ Wiarda 1977, tr. 101.
  24. ^ a b Kay 1970, tr. 55.
  25. ^ a b c d e Kay 1970, tr. 49.
  26. ^ Nohlen, D & Stöver, P. (2010) Elections in Europe: A data handbook, p. 1542 ISBN 978-3832956097
  27. ^ Adão, Áurea; Remédios, Maria José (ngày 23 tháng 5 năm 2006). “The educational narrativity in the first period of Oliveira Salazar's government. Women's voices in the National Assembly (1935–1945)”. History of Education: Journal of the History of Education Society. 34 (5): 547–559. doi:10.1080/00467600500221315.
  28. ^ Wiarda 1977, tr. 109.
  29. ^ Wiarda 1977, tr. 132.
  30. ^ Wiarda 1977, tr. 155.
  31. ^ Robert O. Paxton, "The five stages of fascism." Journal of Modern History 70.1 (1998): 1–23, quotes at pp 3, 17.
  32. ^ Kay 1970, tr. 50–51.
  33. ^ Lewis, Paul H. (ngày 30 tháng 12 năm 2002). Latin Fascist Elites: The Mussolini, Franco, and Salazar Regimes: The Mussolini, Franco, and Salazar Regimes. ABC-CLIO. ISBN 9780313013348 – qua Google Books.
  34. ^ Blamires, Cyprian; Lloyd-Jones, Stewart (2006). World Fascism: A Historical Encyclopedia. ABC-CLIO. tr. 528. ISBN 978-1576079409.
  35. ^ Douglas L. Wheeler, "The Price of Neutrality: Portugal, the Wolfram Question, and World War II," Luso-Brazilian Review (1986) 23#1 pp 107-127 and 23#2 pp 97-111
  36. ^ Gervase Clarence-Smith, William (2011). “The Portuguese Empire and the 'Battle for Rubber' in the Second World War”. Portuguese Studies Review. 19 (1): 177–196.
  37. ^ Ian Dear, and M.R.D. Foot, eds. The Oxford Companion to World War II (1995) pp 910-911.
  38. ^ Davis, Sonny B. (2005). “Salazar, Timor, and Portuguese Neutrality in World War II”. Portuguese Studies Review. 13 (1): 449–476.
  39. ^ Lawrence S. Graham; Harry M. Makler (2014). Contemporary Portugal: The Revolution and Its Antecedents. University of Texas Press. tr. 197. ISBN 9780292773059.
  40. ^ Raby, Dawn L. (1989). “Controlled, Limited and Manipulated Opposition Under a Dictatorial Regime: Portugal, 1945-9”. European History Quarterly. 19 (1): 63–84. doi:10.1177/026569148901900103.
  41. ^ Jessup, John E. (1989). A Chronology of Conflict and Resolution, 1945-1985. New York: Greenwood Press. ISBN 0-313-24308-5.
  42. ^ “Portugal > History and Events > Date Table > Second Republic”. www.portugal-info.net.
  43. ^ “History”. HowStuffWorks. ngày 27 tháng 2 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2010.
  44. ^ Peter Chalk (2012). Encyclopedia of Terrorism. ABC-CLIO. tr. 903. ISBN 9780313385353.
  45. ^ Stephen L. Weigert (2011). Angola: A Modern Military History, 1961-2002. Palgrave Macmillan. tr. 50–51. ISBN 9780230337831.
  46. ^ Rosas, Fernando, Fernando Martins, Luciano do Amaral, Maria Fernanda Rollo, and José Mattoso. O Estado Novo (1926-1974). Estampa, 1998.
  47. ^ Wiarda 1977, tr. 94.
  48. ^ “Portugal: The War Has Made It Europe's Front Door”. Life. ngày 29 tháng 7 năm 1940. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2015.
  49. ^ [1], Joaquim da Costa Leite (Aveiro University) – Instituições, Gestão e Crescimento Económico: Portugal, 1950-1973
  50. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) A verdade sobre o Fundo do Ultramar Lưu trữ 2013-05-11 tại Wayback Machine, Diário de Notícias (ngày 29 tháng 11 năm 2012)
  51. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) Movimento das Forças Armadas (MFA). In Infopédia [Em linha]. Porto: Porto Editora, 2003–2009. [Consult. 2009-01-07]. Disponível na www: <URL: http://www.infopedia.pt/$movimento-das-forcas-armadas-(mfa[liên kết hỏng])>.
  52. ^ Movimento das Forças Armadas (1974–1975), Projecto CRiPE- Centro de Estudos em Relações Internacionais, Ciência Política e Estratégia. © José Adelino Maltez. Cópias autorizadas, desde que indicada a origem. Última revisão em: ngày 2 tháng 10 năm 2008
  53. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) A Guerra Colonial na Guine/Bissau (07 de 07), Otelo Saraiva de Carvalho on the Decree Law, RTP 2 television, youtube.com.
  54. ^ João Bravo da Matta, A Guerra do Ultramar, O Diabo, ngày 14 tháng 10 năm 2008, pp.22
  55. ^ Candeias, António; Simoes, Eduarda (1999). “Alfabetização e escola em Portugal no século XX: Censos Nacionais e estudos de caso”. Análise Psicológica (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 17 (1): 163–194. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  56. ^ Ramos, Rui; Vasconcelos e Sousa, Bernardo (2010). História de Portugal (ấn bản thứ 4). Lisbon: Esfera dos Livros. tr. 641. ISBN 9789896261399.
  57. ^ “Flags of the World”. Fotw.net. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  58. ^ P S Lele, Dadra and Nagar Haveli: past and present, Published by Usha P. Lele, 1987,
  59. ^ Gomes, Carlos de Matos, Afonso, Aniceto. OS anos da Guerra Colonial - Wiriyamu, De Moçambique para o mundo. Lisboa, 2010
  60. ^ Adrian Hastings, The Telegraph (ngày 26 tháng 6 năm 2001)
  61. ^ A direita radical na Universidade de Coimbra (1945–1974) Lưu trữ 2009-03-03 tại Wayback Machine, MARCHI, Riccardo. A direita radical na Universidade de Coimbra (1945-1974). Anál. Social, Jul. 2008, nº 188, pp. 551–76. ISSN 0003-2573.
  62. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) Testemunhos Lưu trữ 2011-01-24 tại Wayback Machine, Observatório da Emigração
  63. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) Cronologia: Movimento dos capitães, Centro de Documentação 25 de Abril, University of Coimbra
  64. ^ (tiếng Bồ Đào Nha) Arquivo Electrónico: Otelo Saraiva de Carvalho, Centro de Documentação 25 de Abril, University of Coimbra
  65. ^ “Time Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
  66. ^ Maxwell, Kenneth (1986) 'Regime Overthrow and the Prospects for Democratic Transition in Portugal' in Transitions from Authoritarian Rule: Prospects for Democracy, ed. Guillermo O’Donnell, Philippe C. Schmitter, and Laurence Whitehead (Baltimore: Johns Hopkins), p. 113
  67. ^ Govan, Fiona (2008). “Gen Franco wanted to declare war on Portugal”. The Telegraph. Madrid. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2015.
  68. ^ Scott B. MacDonald (1993). European Destiny, Atlantic Transformations: Portuguese Foreign Policy Under the Second Republic, 1974-1992. Transaction Publishers. tr. 81. ISBN 9781412822961.
  69. ^ Flight from Angola, The Economist (ngày 16 tháng 8 năm 1975).
  70. ^ Dismantling the Portuguese Empire Lưu trữ 2013-07-23 tại Wayback Machine, Time Magazine (Monday, ngày 7 tháng 7 năm 1975).

Nguồn

Đọc thêm

  • Baklanoff, Eric N. "The Political Economy of Portugal's Later 'Estado Novo': A Critique of the Stagnation Thesis." Luso-Brazilian Review (1992): 1-17. in JSTOR
  • Graham, Lawrence S., and Harry M. Makler. Contemporary Portugal: the revolution and its antecedents (U of Texas Press, 1979)
  • Hamann, Kerstin; Christopher Manuel, Paul (1999). “Regime changes and civil society in twentieth-century Portugal”. South European Society and Politics. 4 (1): 71–96. doi:10.1080/13608740408539560.
  • Kay, Hugh. Salazar and modern Portugal (1970)
  • de Meneses, Filipe. Salazar: A Political Biography (2009)
  • Payne, Stanley G. A History of Spain and Portugal (2 vol 1973) full text online vol 2 after 1700; standard scholarly history; chapter 27 pp 663–83
  • Pimentel, Irene. "Women's Organizations and Imperial Ideology under the Estado Novo." Portuguese Studies (2002): 121–131. in JSTOR
  • Pitcher, M. Anne. Politics in the Portuguese Empire: the State, industry, and cotton, 1926-1974 (Oxford University Press, 1993)
  • Sardica, José Miguel. "The Memory of the Portuguese First Republic throughout the Twentieth Century," E-Journal of Portuguese History (Summer 2011) 9#1 pp 1–27. online
  • Stoer, Stephen R., and Roger Dale. "Education, state, and society in Portugal, 1926-1981." Comparative Education Review (1987): 400–418. in JSTOR
  • West, S. George (1938). “The Present Situation in Portugal”. International Affairs. 17 (2): 211–232. JSTOR 2602248.