Tầng Indu được các nhà địa tầng người Nga đưa vào tài liệu khoa học vào năm 1956,[5], người đã chia tầng Scyth được các nhà phân tầng phương Tây sử dụng thành tầng Indu và tầng Olenek. Tầng Indu được đặt tên theo tên vùng Indus của Ấn Độ.[6] Cách phân chia thống Trias dưới của Nga sau đó dần thay thế cách chia được sử dụng ở phương Tây.
Mặc dù kỳ Indu có độ tuổi ngắn bất thường vào thời điểm này trong thang thời gian địa chất, nhưng phạm vi triệu năm của nó vẫn chứa 5 đới sinh vậtammonit trong miền Boreal, và 4 đới sinh vậtammonit trong miền Tethys.
Trầm tích biển đá phiến đen rất phổ biến, đặc biệt là trong vùng phụ tầng Dieneri của Indu. Những điều này chỉ ra sự kiện thiếu oxy trong đại dương.[8]
Một chi dissorophoid temnospondyl trong họ Micropholidae. Trước đây nó đã được bao gồm trong Amphibamidae cùng với các micropholid khác. Tuy nhiên, một số phân tích cho thấy họ Micropholidae là một nhánh riêng biệt của thuốc giảm trĩ non-olsoniform có nguồn gốc.
Triadobatrachus là một chi đã tuyệt chủng của động vật lưỡng cư giống ếch salientia, chỉ bao gồm một loài đã biết, Triadobatrachus massinoti. Nó là thành viên lâu đời nhất của dòng ếch được biết đến, và là một ví dụ tuyệt vời về hóa thạch chuyển tiếp.
Một loài song sinh procolophonid, hiện được phân loại thuộc chi procolophoninEumetabolodon mặc dù nó có tính cơ bản hơn và có quan hệ họ hàng gần với Theledectes.
Một loài bò sát tương đối nhỏ, có cấu tạo nhẹ, giống thằn lằn, rất có thể là tangasauridyounginiform nhưng không có khả năng thích nghi thủy sinh riêng biệt.
Loài bò sát đất lớn nhất trong thời kỳ đầu kỷ Trias, có kích thước tương đương với rồng Komodo ngày nay. Nó trông hơi giống với một con cá sấu nguyên thủy và có nhiều đặc điểm hiện đại như hàm dài, cơ cổ khỏe, chân ngắn và đuôi dài, trong khi vẫn giữ được một số đặc điểm riêng như chân dài và miệng hình móc câu.
Từng được cho là một proterosuchid, đơn vị phân loại này ngày nay được cho là trung gian giữa các archosauriform không archosauriform nâng cao như Prolacerta và các archosauriform cơ bản như Proterosuchus. Chi này cũng đáng chú ý là một trong những loài bò sát kỷ Trias Australia hoàn chỉnh nhất được biết đến.
Ban đầu được phân loại là rauisuchid, Tsylmosuchus gần đây được hiểu là một dạng archosauriform không xác định. Tsylmosuchus xuất hiện trong suốt thời đại Olenekian. Một số địa tầng mà từ đó Tsylmosuchus đã được tìm thấy có tuổi Indu, khiến nó trở thành một trong những loài archosaurs sớm nhất.
Một dicynodont. Đây là nhóm động vật có xương sống trên cạn phổ biến nhất trong kỷ Trias sớm, trong một thời gian 95% động vật có xương sống trên cạn là Lystrosaurus
Một cynodont cỡ mèo. Nhiều nhà khoa học cho rằng những vết rỗ trên hộp sọ cho thấy Thrinaxodon có râu và do đó, có thể có một lớp lông bao phủ. Có ý kiến cho rằng nó là một kẻ máu nóng. Dù vậy, nó vẫn đẻ trứng.
^Yin Hongfu, Zhang Kexin, Tong Jinnan, Yang Zunyi und Wu Shunbao: '"The Global Stratotype Section and Point (GSSP)of the Permian-Triassic Boundary." Episodes, 24(2): 102-114, Beijing 2001 ISSN0705-3797.
^Ware et al. (2015): High-resolution biochronology and diversity dynamics of the Early Triassic ammonoid recovery: the Dienerian faunas of the Northern Indian Margin. Palaeogeography, Palaeoclimatology, Palaeoecology 440:363-373 https://doi.org/10.1016/j.palaeo.2015.09.013
Văn liệu
Brack, P.; Rieber, H.; Nicora, A. & Mundil, R.; 2005: The Global boundary Stratotype Section and Point (GSSP) of the Ladinian Stage (Middle Triassic) at Bagolino (Southern Alps, Northern Italy) and its implications for the Triassic time scale, Episodes 28(4), pp. 233–244.
Gradstein, F. M.; Ogg, J. G. & Smith, A. G.; 2004: A Geologic Time Scale 2004, Cambridge University Press.
Kiparisova, Lubov Dmitrievna & Popov, Yurij Nikolaivitch; 1956: Расчленение нижнего отдела триасовой системы на ярусы (Subdivision of the lower series of the Triassic System into stages), Doklady Akademii Nauk SSSR 109(4), pp 842–845.