Billie Joe Armstrong
Một biên tập viên đang sửa phần lớn trang bài viết này trong một thời gian ngắn. Để tránh mâu thuẫn sửa đổi, vui lòng không chỉnh sửa trang khi còn xuất hiện thông báo này. Người đã thêm thông báo này sẽ được hiển thị trong lịch sử trang này. Nếu như trang này chưa được sửa đổi gì trong vài giờ, vui lòng gỡ bỏ bản mẫu. Nếu bạn là người thêm bản mẫu này, hãy nhớ xoá hoặc thay bản mẫu này bằng bản mẫu {{Đang viết}} giữa các phiên sửa đổi. Trang này được sửa đổi lần cuối vào lúc 07:25, 19 tháng 9, 2024 (UTC) (42 giờ trước) — Xem khác biệt hoặc trang này. |
Billie Joe Armstrong | |
---|---|
Armstrong biểu diễn tại nhạc hội Isle of Wight Festival 2024 | |
Sinh | 17 tháng 2, 1972 Oakland, California, Hoa Kỳ |
Tên khác |
|
Học vị | Trường trung học Pinole Valley |
Nghề nghiệp |
|
Phối ngẫu |
|
Con cái | 2 |
Người thân | Steve Nesser (anh rể) |
Giải thưởng | Danh sách chi tiết |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | |
Nhạc cụ |
|
Năm hoạt động | 1987–nay |
Hãng đĩa | Reprise |
Cựu thành viên |
|
Chữ ký | |
Billie Joe Armstrong (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1972) là một nhạc sĩ và nam diễn viên người Mỹ. Anh nổi danh nhất nhờ làm giọng ca chính, nghệ sĩ guitar và nhạc sĩ sáng tác bài hát chính của ban nhạc rock Green Day - nhóm do anh đồng sáng lập với Mike Dirnt vào năm 1987. Anh còn là nghệ sĩ guitar kiêm hát chính cho ban nhạc punk rock Pinhead Gunpowder, ngoài ra còn góp giọng chính cho các dự án phụ của Green Day gồm Foxboro Hot Tubs, the Network, the Longshot và the Coverups. Armstrong được giới phê bình xem là một trong những nghệ sĩ guitar nhạc punk rock vĩ đại nhất mọi thời.
Armstrong phát triển niềm đam mê âm nhạc lúc còn nhỏ và thu ca khúc đầu năm anh lên năm tuổi. Anh gặp Dirnt khi đang học tiểu học, hai người ngay lập tức gắn kết nhờ chung sở thích về âm nhạc, rồi họ lập nên ban nhạc Sweet Children khi bước sang tuổi 14. Sau đó ban nhạc đổi tên thành Green Day. Armstrong còn theo đuổi các dự án âm nhạc nữa, như nhiều lần hợp tác với các nhạc sĩ khác.
Armstrong đã đóng trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình như Like Sunday, Like Rain, Ordinary World, King of the Hill, Haunted và Drunk History. Ngoài đồng chắp bút sách và viết lời cho American Idiot (vở nhạc kịch jukebox có sự xuất hiện nhiều bài hát của Green Day), Armstrong đã thủ vai Thánh Jimmy trong tác phẩm; vở diễn kéo dài trong nhiều tuần vào đợt công diễn ở Broadway.
Những hoạt động của Armstrong bao gồm thành lập Adeline Records để hỗ trợ các ban nhạc khác vào năm 1997, trùng với thời điểm phát hành Nimrod. Adeline đã ký hợp đồng với các nghệ sĩ như the Frustrators, AFI và Dillinger Four. Công ty thu âm đã đóng cửa sau hai thập kỷ hoạt động vào tháng 8 năm 2017. Armstrong cũng đồng sáng lập công ty cà phê Punk Bunny Coffee (tiền thân là Oakland Coffee Works) vào năm 2015.
Thân thế
[sửa | sửa mã nguồn]Armstrong sinh ra tại Oakland, California[1] vào ngày 17 tháng 2 năm 1972,[2] anh là con út trong sáu người con của Ollie Jackson (sinh 1932)[3] và Andrew Marsicano Armstrong (1928–1982). Anh trưởng thành ở Rodeo, California. Cha anh là nhạc sĩ nhạc jazz kiêm tài xế xe tải cho Safeway, ông mất vì ung thư thực quản vào ngày 10 tháng 9 năm 1982, khi Armstrong mới 10 tuổi.[4] Bài hát "Wake Me Up When September Ends" được anh sáng tác để tưởng nhớ cha. Armstrong có năm anh chị, gồm ba chị gái là Marci, Hollie, và Anna cùng hai người anh tên David và Alan. Mẹ anh làm bồi bàn ở quán Rod's Hickory Pit tại El Cerrito, California; tại nơi này, sau đó anh và Mike Dirnt diễn show đầu tiên vào năm 1987.[4] Hai cụ cố Pietro Marsicano và Teresa Nigro là người Ý nhập cư đến từ Viggiano, họ định cư ở Boston trước khi chuyển đến Berkeley, California vào năm 1869.[5]
Armstrong theo học tại Trường Tiểu học Hillcrest ở Rodeo, tại trường giáo viên khích lệ anh thu thanh một ca khúc có tựa "Look for Love" năm lên năm tuổi,[6] phát hành qua hãng Fiat Records ở Bay Area.[7] Sau khi cha mất, mẹ cưới một người đàn ông mà các con bà ghét, làm Armstrong càng lấn sâu vào âm nhạc. Năm 10 tuổi, anh gặp đồng đội tương lai Mike Dirnt ở căng tin của trường, và họ nhanh chóng kết thân nhờ chung tình yêu âm nhạc.[4] Anh quan tâm đến punk rock sau khi được những người anh giới thiệu cho thể loại này.[8] Anh nhắc đến Van Halen, Ramones, The Replacements và Hüsker Dü là những nguồn ảnh hưởng âm nhạc của mình. Buổi hòa nhạc đầu tiên mà anh tham dự là buổi diễn của Van Halen vào năm 1984. Sau khi học hết Tiểu học Hillcrest, Armstrong theo học Trường trung học Carquinez và Trường trung học John Swett (cả hai trường đều ở Crockett, California), rồi chuyển đến Trường trung học Pinole Valley ở Pinole, California. Vào dịp sinh nhật 18 tuổi, anh bỏ học để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 1987, tức năm 15 tuổi, Armstrong lập một ban nhạc có tên gọi Sweet Children với cậu bạn chơi từ nhỏ Mike Dirnt. Lúc đầu, Armstrong và Dirnt đều chơi guitar, còn Raj Punjabi[9] chơi trống[10] và Sean Hughes chơi bass. Sau đó vị trí chơi trống của Punjabi bị thay thế bởi John Kiffmeyer, hay có tên là Al Sobrante. Sau vài lần trình diễn, Hughes rời ban nhạc vào năm 1988; thế nên Dirnt bắt đầu chơi bass và họ trở thành ban nhạc có đội hình ba người. Họ đổi tên nhóm thành Green Day vào tháng 4 năm 1989, họ chọn cái tên này vì niềm đam mê với cần sa.[11]
Năm 1989, Green Day phát hành đĩa EP đầu tay mang tên 1,000 Hours thông qua hãng Lookout Records. Họ ghi âm album phòng thu đầu tay mang tên 39/Smooth và đĩa EP Slappy vào năm 1990, sau đó đĩa này này kết hợp với 1,000 Hours để hợp thành sản phẩm tuyển tập 1,039/Smoothed Out Slappy Hours vào năm 1991.
Năm 1990, Armstrong đánh lead guitar và hát bè ở ba bài hát trong đĩa EP cuối của The Lookouts mang tên IV, với sự tham gia của Tré Cool chơi trống. Tré trở thành tay trống của Green Day vào cuối năm 1990 sau khi Sobrante rời nhóm để theo học đại học. Cool có màn ra mắt ở album thứ hai của Green Day là Kerplunk (1991).
Năm 1991, Armstrong tham gia vào Pinhead Gunpowder - ban nhạc gồm tay bass Bill Schneider, tay trống Aaron Cometbus và tay hát chính kiêm đánh guitar Sarah Kirsch. Kirsch rời nhóm vào năm 1992 và người thay thế anh là Jason White. Nhóm đã phát hành một số sản phẩm album và EP từ năm 1991 đến nay, đồng thời biểu diễn các live show ngắt quãng trong thời gian đó.[12]
Năm 1993, Armstrong diễn trực tiếp một vài lần với ban nhạc trú ở California là Rancid. Ca sĩ chính của Rancid là Tim Armstrong đã mời Billie Joe Armstrong vào ban nhạc, song anh từ chối do đang trên đà thành danh cùng Green Day. Tuy nhiên, Billie Joe Armstrong được ghi công đồng sáng tác bài hát "Radio" của Rancid vào năm 1993.
Với việc ra mắt đĩa LP Dookie (1994), Green Day đã gây tiếng vang và tiến vào thị trường nhạc đại chúng, đồng thời vẫn là một trong những ban nhạc rock nổi tiếng nhất thập niên 1990 và 2000 với hơn 60 triệu bản tiêu thụ toàn thế giới. Những sản phẩm ra mắt sau album ấy là Insomniac (1995), Nimrod (1997) và Warning (2000).
Armstrong đã hợp tác với nhiều nghệ sĩ. Anh đồng sáng tác bài "Unforgiven" (2001) của the Go-Go's. Anh còn đồng sáng tác bài hát với Penelope Houston ("The Angel and The Jerk" và "New Day"), vừa hát bè với Melissa Auf der Maur ở bài "Do Miss America" của Ryan Adams; họ cũng nhận làm ban nhạc bè đệm cho Iggy Pop ở album Skull Ring ("Private Hell" và "Supermarket"). Armstrong đã sản xuất một album cho the Riverdales. Anh là thành phần thuộc dự án phụ the Network của Green Day từ 2003 đến 2005, dự án được hoạt động trở lại vào năm 2020. The Network phát hành hai album: Money Money 2020 (2003) và Money Money 2020 Part II: We Told Ya So! (2020)
Với hi vọng thanh tẩy đầu óc và phát triển ý tưởng mới để sáng tác, Armstrong đến thành phố New York một mình trong vài tuần vào năm 2003, anh thuê một căn hộ nhỏ ở vùng East Village của Manhattan. Anh dành phần lớn quãng thời gian đi bộ đường dài và tham gia các buổi diễn ngẫu hứng ở tầng hầm của quán bar Hi-Fi tại Manhattan. Tuy nhiên, bạn bè mà anh kết thân trong thời gian này lại uống quá nhiều rượu so với sở thích của anh, trở thành chất xúc tác làm Armstrong trở về Bay Area.[13] Sau khi trở về nhà, Armstrong bị bắt giữ do lái xe trong tình trạng say xỉn vào ngày 5 tháng 1 năm 2003, rồi được bảo lãnh với giá 1.200 đô la Mỹ (USD).[13]
Năm 2004, Green Day ra mắt tác phẩm rock opera đầu tiên của nhóm là American Idiot. Album đã bán ra hơn 15 triệu bản toàn thế giới, nhờ có sự góp sức của các bài hit như "American Idiot", "Boulevard of Broken Dreams" và "Wake Me Up When September Ends".[14] Năm 2009, Green Day phát hành tác phẩm rock opera thứ hai mang tên 21st Century Breakdown, và tác phẩm này tiếp tục gặt hái thành công về mặt thương mại.[15] Xen giữa hai dự án này, Armstrong làm giọng ca chính cho dự án phụ của Green Day là Foxboro Hot Tubs, nhóm này được thành lập vào năm 2007 và đã trình bày các live show ngắt quãng từ đó đến giờ. Foxboro Hot Tubs phát hành một album mang tên Stop Drop and Roll!!! vào năm 2008.[16][17]
Năm 2009, Armstrong lập một ban nhạc có tên gọi Rodeo Queens cùng các thành viên của Green Day và nghệ sĩ punk rock Jesse Malin ở New York. Họ phát hành một ca khúc kèm một MV có tên gọi "Depression Times".[18]
Danh sách đĩa nhạc
[sửa | sửa mã nguồn]Nhạc phẩm solo
[sửa | sửa mã nguồn]- Album
- Foreverly (2013, với Norah Jones)
- No Fun Mondays (2020)
- Đĩa đơn
- "Look for Love" (1977)
- "Long Time Gone" (2013)
- "I Think We're Alone Now" (2020)[19]
- "Manic Monday" (2020)
- "That Thing You Do!" (2020)[20]
- "Kids in America" (2020)
- "You Can't Put Your Arms Around a Memory" (2020)
- "Corpus Christi" (2020)
- "War Stories" (2020)
- "Amico" (2020)
- "Not That Way Anymore" (2020)
- "That's Rock 'n' Roll" (2020)
- "Gimme Some Truth" (2020)
- "A New England" (2020)
Green Day
[sửa | sửa mã nguồn]- 39/Smooth (1990) –hát chính, guitar
- Kerplunk! (1991) – hát chính, guitar, đánh trống và hát bè trong bài "Dominated Love Slave"
- Dookie (1994) – hát chính, guitar
- Insomniac (1995) – hát chính, guitar
- Nimrod (1997) – hát chính, guitar, harmonica trong bài "Walking Alone"
- Warning (2000) – hát, guitar, mandolin, harmonica
- American Idiot (2004) – hát chính và bè, guitar
- 21st Century Breakdown (2009) – lhát chính và bè, guitar, dương cầm[21]
- American Idiot: The Original Broadway Cast Recording (2010) – hát, guitar, dương cầm
- ¡Uno! (2012) – hát, guitar
- ¡Dos! (2012) – hát, guitar
- ¡Tré! (2012) – hát, guitar, piano
- Revolution Radio (2016) – hát chính, guitar, piano
- Father of All Motherfuckers (2020) - hát chính, guitar
- Saviors (2024)[22] - hát chính, guitar
Pinhead Gunpowder
[sửa | sửa mã nguồn]Hát và chơi guitar trong tất cả nhạc phẩm
- Jump Salty (1994)
- Carry the Banner (1994)
- Goodbye Ellston Avenue (1997)
- Shoot the Moon (EP) (1999) – kiêm sản xuất
- Compulsive Disclosure (2003)
- West Side Highway (EP) (2008)
The Network
[sửa | sửa mã nguồn]- Money Money 2020 (2003) – guitar, hát
- Trans Am (2020)
- Money Money 2020 Part II: We Told Ya So! (2020) - hát chính, lead guitar, hát bè và chơi trống
Foxboro Hot Tubs
[sửa | sửa mã nguồn]- Stop Drop and Roll!!! (2008) – hát chính[23]
The Boo
[sửa | sửa mã nguồn]The Shrives
[sửa | sửa mã nguồn]- Turn Me On (EP) (2015) – bass
The Longshot
[sửa | sửa mã nguồn]- The Longshot (EP) (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
- Love Is for Losers (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
- Devil's Kind (Single) (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
- Bullets (Single) (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
- Razor Baby (EP) (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
- Return to Sender (EP) (2018) – hát, guitar, bass và chơi trống
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ Driven: Green Day (VH1). Sự kiện xảy ra vào lúc 2:05. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
- ^ Else, Loren (17 tháng 2 năm 2016). “Today in History: Yellow ribbons tied on trees and light standards”. Post Bulletin. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2016.
- ^ “Son's on a roll, but mom's the rock”. East Bay Times. 13 tháng 5 năm 2007. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2019.
- ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênRS
- ^ “Potenza, il leader dei Green Day è di origini lucane” (bằng tiếng Ý). napoli.repubblica.it. 16 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
- ^ Childers, Chad (19 tháng 7 năm 2015). “Hear 5-Year-Old Billie Joe Armstrong Singing 'Look for Love'”. LoudWire. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2019.
- ^ “Look for Love”. Record Mecca. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2011.
- ^ Armstrong, Billie Joe (2005). “The Sex Pistols”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2006.
- ^ “YouTube”. YouTube. 26 tháng 1 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Metropolis – Music and Concerts: Green Day”. Archive.metropolis.co.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013.
- ^ “10 Questions for Billie Joe Armstrong”. Time. 28 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Pinhead Gunpowder”. Punk News. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
- ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênSpitz151
- ^ Sheffield, Rob (30 tháng 9 năm 2004). “Green Day's American Idiot”. Rolling Stone. New York City: Wenner Media. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2013.
- ^ Sheffield, Rob (27 tháng 4 năm 2009). “Green Day's 21st Century Breakdown”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Green Day Side Project Releases New Single”. NME. 1 tháng 4 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
- ^ Paul, Aubin (6 tháng 5 năm 2008). “Foxboro Hot Tubs--Stop Drop and Roll!!! (2008)”. Punk News. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
- ^ Young, Alex (6 tháng 12 năm 2010). “Check Out: Rodeo Queens (Green Day + Jesse Malin) – 'Depression Times'”. Consequence of Sound. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2019.
- ^ “I Think We're Alone Now”. 17 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2020 – qua Spotify.
- ^ “The Thing You Do!”. 28 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2020 – qua Spotify.
- ^ “21st Century Breakdown - Green Day”. AllMusic. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2023.
- ^ Dunworth, Liberty (24 tháng 10 năm 2023). “Green Day announce album 'Saviors' and share new single”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2023.
- ^ “Foxboro Hot Tubs – Stop Drop and Roll!!!”. Punknews.org. 6 tháng 5 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2013.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Tập tin phương tiện từ Commons | |
Danh ngôn từ Wikiquote |
- Nhà sản xuất thu âm từ California
- Nhân vật còn sống
- Người LGBT từ California
- Người đoạt giải Grammy
- Nhạc sĩ song tính nam
- Người viết bài hát nhạc rock Mỹ
- Người Mỹ gốc Ý
- Nghệ sĩ đa nhạc cụ người Mỹ
- Nam ca sĩ tự sáng tác Mỹ
- Nam nghệ sĩ guitar người Mỹ
- Ca sĩ LGBT Mỹ
- Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21
- Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 20
- Sinh năm 1972