Soyuz MS-15
Soyuz MS-15 Союз МС-15 | |
Nhà vận hành: | Roscosmos |
ID COPSAR: | 2019-064A |
Số SATCAT: | 44550 |
Thời gian chuyến bay: | 204d 15h 19m |
Thuộc tính tàu vũ trụ | |
Loại tàu: | Soyuz MS 11F747 |
Nhà sản xuất: | RKK Energia |
Khối lượng (khi phóng): | 7080kg |
Phi hành đoàn | |
Số người: | 3 |
Thành viên: | Oleg I. Skripochka Jessica U. Meir |
Phóng lên: | Hazza Al-Mansouri |
Trở về: | Andrew R. Morgan |
Tên gọi: | Sarmat (Сармат) |
Bắt đầu | |
Ngày phóng: | 25 tháng 9 năm 2019 13:57:43 UTC[1] |
Tên lửa: | Soyuz-FG |
Nơi phóng: | Bệ phóng 1/5 Sân bay vũ trụ Baikonur |
Kết nối với ISS | |
Cổng kết nối: | Phía sau mô-đun Zvezda |
Ngày kết nối: | 25 tháng 9 năm 2019 19:42:40 UTC |
Ngày rời trạm: | 17 tháng 4 năm 2020 01:53:40 UTC |
Thời gian kết nối: | 204d 6h 11m |
Kết thúc | |
Ngày hạ cánh: | 17 tháng 4 năm 2020 05:16:43 UTC |
Nơi hạ cánh: | 47°21′B 69°32′Đ / 47,35°B 69,533°Đ |
Thông số quỹ đạo | |
Loại quỹ đạo: | Qũy đạo Trái Đất thấp |
Cận điểm: | 416 km |
Viễn điểm: | 422 km |
Độ nghiêng quỹ đạo: | 51.64 độ |
Chương trình Soyuz | |
Chuyến bay trước: | Soyuz MS-14 (không người lái) Soyuz MS-13 (có người lái) |
Chuyến bay sau: | Soyuz MS-16 |
Soyuz MS-15 là một chuyến bay tàu vũ trụ Soyuz phóng vào ngày 25 tháng 9 năm 2019,[2] đưa hai thành viên của phi hành đoàn Expedition 61 và một thành viên lưu trú ngắn ngày đến Trạm Vũ trụ Quốc tế. Soyuz MS-15 là chuyến bay thứ 144 của tàu vũ trụ Soyuz. Đây là chuyến bay cuối cùng của tên lửa Soyuz-FG trước khi được thay thế bởi tên lửa Soyuz-2.1a trong vai trò phóng phi hành gia lên không gian. Đây cũng là lần phóng cuối cùng từ Bệ phóng 1/5 (Gagarin's Start) tại Sân bay vũ trụ Baikonur.[3]
Phi hành đoàn bao gồm một chỉ huy người Nga, một kỹ sư chuyến bay người Mỹ và phi hành gia người UAE đầu tiên.[4] Để kỷ niệm sự kiện này, hình ảnh của tên lửa Soyuz và phi hành gia Hazza Al Mansouri đã được chiếu trên Burj Khalifa, tòa nhà cao nhất thế giới.[5]
Phi hành đoàn
[sửa | sửa mã nguồn]Vị trí | Phi hành gia phóng lên | Phi hành gia trở về |
---|---|---|
Chỉ huy | Oleg I. Skripochka, Roscosmos
| |
Kỹ sư chuyến bay 1 | Jessica U. Meir, NASA
| |
Thành viên tham gia chuyến bay/Kỹ sư chuyến bay 2 | Hazza Al Mansouri, MBRSC (Trung tâm Vũ trụ Mohammed bin Rashid)
|
Andrew R. Morgan, NASA
|
Nguồn:[6]
Phi hành đoàn dự phòng
[sửa | sửa mã nguồn]Vị trí | Phi hành gia |
---|---|
Chỉ huy | Sergey N. Ryzhikov, Roscosmos |
Kỹ sư chuyến bay 1 | Thomas H. Mashburn, NASA |
Thành viên tham gia chuyến bay/Kỹ sư chuyến bay 2 | Sultan Al Neyadi, MBRSC (Trung tâm Vũ trụ Mohammed bin Rashid) |
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ http://www.spacefacts.de/mission/english/soyuz-ms-15.htm
- ^ “Определены сроки запусков с Байконура к МКС, сообщил источник” [Launch dates to ISS from Baikonur are defined, per source] (bằng tiếng Nga). RIA Novosti. ngày 22 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2018.
- ^ Gebhardt, Chris (24 tháng 9 năm 2019). “Soyuz MS-15 Soyuz-FG retirement; Last launch from Gagarin's Start lofts first Emirati astronaut”. NASASpaceflight.com.
- ^ “UAE says its first astronaut going into space in September”. The News & Observer. ngày 25 tháng 2 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2019.
- ^ Burj Khalifa lights up as UAE readies to enter space
- ^ https://www.americaspace.com/2019/03/08/on-international-womens-day-nasa-looks-forward-to-first-all-female-eva-in-late-march-koch-tapped-for-longer-iss-stay/