Bước tới nội dung

Grenade (bài hát)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
"Grenade"
Red hand grenade with a white handle and a black safety pin on a black background. The word "Grenade" is in lowercase red font beneath the words "Bruno Mars" in white capital font to the upper right.
Đĩa đơn của Bruno Mars
từ album Doo-Wops & Hooligans
Phát hành28 tháng 9 năm 2010 (2010-09-28)
Thu âm2010; Larrabee Recording Studios and Levcon Studios (Los Angeles, California)
Thể loạiPop, R&B đương đại
Thời lượng3:42
Hãng đĩaAtlantic, Elektra
Sáng tácBruno Mars, Philip Lawrence, Ari Levine, Brody Brown, Claude Kelly, Andrew Wyatt
Sản xuấtThe Smeezingtons
Thứ tự đĩa đơn của Bruno Mars
"Just the Way You Are"
(2010)
"Grenade"
(2010)

"Grenade" là bài hát được trình bày bởi ca sĩ-nhạc sĩ và nhà sản xuất âm nhạc người Mỹ - Bruno Mars trích từ album phòng thu đầu tay của anh ấy, Doo-Wops & Hooligans. Ban đầu ca khúc phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá vào ngày 28 tháng 9 năm 2010, sau đó được phát hành chính thức là đĩa đơn thứ hai trích từ album. Là ca khúc đầu tiên của album, được viết bởi Mars cùng với nhóm sản xuất âm nhạc của anh là The Smeezingtons và Brody Brown, Claude Kelly, Andrew Wyatt. Các đánh giá và nhận xét đối với bài hát đa số đều rất tích cực, các nhà phê bình đã khen ngợi giọng ca và lời bài hát rất cảm xúc trong một ca khúc chia tay như Grenade. Nó đã đạt vị trí số 1 tại Úc, Canada, Ireland, New Zealand, Liên hiệp Anh, và trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Bruno Mars ở Mỹ và Anh. Video âm nhạc được phát hành vào giữa tháng 11 năm 2010.

Bối cảnh ra đời

[sửa | sửa mã nguồn]
"Tôi và một người bạn - Benny Blanco đã cùng nhau chơi nhạc trước đây, và anh ấy đã đánh một bản nhạc ghita và có lời bài hát giống bài này ("Grenade")... anh ấy còn nói rằng, nhóm nhạc này không chính thức, và đĩa nhạc này cũng sẽ không được phát hành. Tôi nói với Benny, tôi có thể cảm nhận được, tôi muốn hát và biến nó trở thành của tôi. Anh ấy đã liên lạc với một số người bạn, và tôi bắt đầu viết phiên bản của tôi, cơ bản là vậy. Đó là một bài hát đau khổ, tan vỡ và tôi nghĩ mọi người có thể cảm nhận được nó. Bạn đang yêu một người phụ nữ và bạn không hiểu nổi, 'Tôi đang làm gì sai? Tôi chưa trao cho em cái gì? Tôi sẽ đi thật xa đến khi nào có thể bắn một viên đạn vào đầu vì em, và tại sao tôi không thể có được tình yêu mà tôi hằng ao ước?'"

—Bruno Mars viết và nói về ý nghĩa của "Grenade"

Doo-Wops & Hooligans phát hành 2 bài hát trên iTunes Store-không tính đĩa đơn quảng bá trước đó, vào tháng 10 năm 2010;"Liquor Store Blues", hợp tác cùng Damian Marley, và "Grenade". Ca khúc được phát hành vào ngày 28 tháng 9 năm 2010.[1] Trong một cuộc phỏng vấn với Idolator, Mars tiết lộ nhạc sĩ-nhà sản xuất âm nhạc Benny Blanco có chơi một bản nhạc tương tự cùng anh nhưng không phát hành chính thức, và lời bài hát cùng chủ đề, đó chính là cảm hứng chính cho Mars. Anh ấy cũng bày tỏ mong muốn phát hành ca khúc như một đĩa đơn "yêu thích của riêng mình".[2] Trong một cuộc phỏng vấn với Digital Spy, Mars tiết lộ kế hoạch đĩa đơn tiếp theo "Just the Way You Are" với "Grenade".

Sáng tác

[sửa | sửa mã nguồn]

"Grenade" là một ca khúc ballad mang chất PopR&B đương đại, đồng sáng tác bởi Mars nhóm sản xuất âm nhạc The Smeezingtons, Brody Brown, Claude Kelly, và Andrew Wyatt.[3] Bản nhạc phát hành bởi Sony/ATV Music Publishing cho thấy rằng "Grenade" viết ở giọng Dm, tốc độ vừa phải, tempo 108 nhịp/phút. Giọng hát của Mars kéo dài trong quãng từ nốt A3 đến D5 và giọng bè được xen vào xuyên suốt bài hát.[3] Bài hát bắt đầu nhẹ nhàng nhưng mạnh dần và lên cao cả âm nhạc và lời ca ở cao trào bài hát, dựa trên "những nhịp phức rộn ràng".[4] Theo Jon Caramanica của tờ The New York Times, bài hát mang yếu tố âm nhạc của những năm thập niên 80 và kèm thêm tiếng trống mạnh tương tự như phong cách của Kanye West.[5] Bill Lamb của About.com chú ý đến "cấu trúc pop cổ điển của bài hát" và Scott Kara của The New Zealand Herald mô tả nhịp điệu bài hát ảnh hưởng bởi phong cách của Shakira.[6] Bài hát có mang một chút yếu tố của Jeff Tweedy trong ca khúc "I'll Fight". Về phần lời bài hát, "Grenade" mang chủ đề tình yêu tan vỡ và đau khổ, một câu chuyện tình éo le với mối quan hệ mâu thuẫn:"Gave you all I had / And you tossed it in the trash" (tạm dịch: Trao cho em tất cả những gì tôi có, và em đã ném chúng vào bãi rác).[4] Mars hát đoạn điệp khúc như sau, "I'd catch a grenade for ya,"(tạm dịch: Tôi sẽ cầm lựu đạn vì em), và tình yêu đó không được đáp lại vì cô gái "sẽ không làm điều tương tự". (won't do the same)[7]

Nhận xét

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhận xét và phê bình

[sửa | sửa mã nguồn]
"Grenade" được so sánh với ca khúc "Dirty Diana" của Michael Jackson.

Grenade được nhận rất nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình. Lamb đưa ra đánh giá cho bài hát trong 4 sao rưỡi trên 5 sao, khen ngợi giọng ca của Mars và lời bài hát cảm động với một ca khúc mà anh cho rằng "củng cố vị trí của anh ấy trong top các nghệ sĩ mới hàng đầu của năm 2010".[8] Leah Greenblatt của Entertainment Weekly gọi "Grenade" là "bầu không khí rộng mở" trong album phòng thu đầu tay của Mars, và xem nó như điểm nổi bật của album, cũng như Sean Fennessey của The Washington Post.[9][10] Roberto Mucciacciaro từ MTV chú ý đến ảnh hưởng mạnh mẽ và tương tự với ca khúc "Dirty Diana" của Michael Jackson, một ca khúc mà Mars cũng từng biểu diễn cover vài lần trong các sự kiện âm nhạc.[11] Amar Toor của kênh AOL Radio đã khen ngợi bài hát, gọi nó "không có gì thiếu để bùng nổ", và Jody Rosen của tờ Rolling Stone giới thiệu bài hát là bằng chứng cho tài năng của Mars như một "nhà soạn nhạc phung phí tài năng".[4][12] Tuy nhiên, Eric Henderson của tạp chí Slant lại gạt bỏ lời bài hát không thực tế của ca khúc và Tim Sendra của allmusic nghĩ bài hát "hơi quá"; là ca khúc yếu ớt nhất trong album.[13][14]

Diễn biến bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

"Grenade" lần đầu tiên ra mắt trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào tuần tính từ ngày 16 tháng 10 năm 2010 ở vị trí số 8 và nhảy lên vị trí số 5 vào tuần tính từ ngày 18 tháng 12 năm 2010.[15] Vào ngày 29 tháng 12, nó đã đạt vị trí số 1, trở thành đĩa đơn quán quân thứ ba của Bruno Mars trên bảng xếp hạng này, đĩa đơn quán quân đầu tiên của anh là hợp tácvới B.o.B trong Nothin' On You, và Just the Way You Are. (Đĩa đơn sau đó đã bị rớt hạng và quay trở lại vị trí số 1 thêm 2 lần nữa, trở thành một trong bảy đĩa đơn trong lịch sử Billboard có 3 lần riêng biệt ở vị trí quán quân.) Vào tháng 1 năm 2011, nó trở thành đĩa đơn solo thứ hai của anh ấy đứng đầu bảng với 2 triệu lượt tải trả tiền.[16] It has now sold over 3,000,000 downloads in the US.[17] Vào tháng 2, đĩa đơn đã đứng đầu bảng với 3 triệu lượt tải về chỉ với 19 tuần ra mắt. So với Just The Way You Are đạt mức tải về này chỉ sau 4 tuần, tổng cộng là 23 tuần.[18]. Bài hát đạt vị trí số 1 tại bảng xếp hạng Canadian Hot 100,[19] New Zealand, Australia and Sweden.[20][21] Vào ngày 4 tháng 2, đĩa đơn đã giành được 4 tuần đứng đầu bảng tại bảng xếp hạng Irish Singles Chart.

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc được phát hành vào ngày 19 tháng 11 năm 2010, đạo diễn bởi NABIL.[22] Trong video hậu trường, Mars giải thích, "Ý tưởng của video là cuộc đấu tranh của tôi, để nói với cô gái rằng tôi sẽ làm tất cả vì cô ấy, vì thế tôi sẽ đi xa thật xa đến khi nào kéo cây đàn dương cầm tặng cô ấy để tôi có thể hát lên con tim mình."[23] Video với hình ảnh những nỗ lực của Mars để hát cho cô gái sau khi kéo được cây đàn dương cầm đi qua Los Angeles.[23][24][25] Anh ấy mặc một bộ đồ vet và gặp một nhóm giang hồ và một con chó bun trên đường đi.[23][26] Khi anh ấy đến được nhà cô gái và nhìn thấy cô ấy với người đàn ông khác, anh ta tự kéo dương cầm một mình và đứng trước đoàn xe lửa.[26]

Biểu diễn trực tiếp

[sửa | sửa mã nguồn]

Mars biểu diễn bài hát tại Bowery BallroomNew York vào ngày 25 tháng 8 năm 2010, anh ấy và 4 người trom nhóm nhạc đều mặc bộ đồ tuxedo màu xanh và cà vạt nhỏ màu đen.[27] Bài hát cũng được biểu diễn tương tự vào ngày 9 tháng 10 năm 2010 trong chương trình Saturday Night Live, một phần biến tấu của Nothin' on You".[28][29] Một bản phối nhẹ nhàng của ca khúc được hát trong một video mẫu của tạp chí Billboard ở mục Tastemakers.[30] Ngoài ra, Mars đã biểu diễn âm nhạc trong chương trình Late Show with David Letterman với "Grenade" cùng một dàn hợp xướng toàn nữ.[31] Bài hát được biểu diễn vào ngày 28 tháng 11 năm 2010 trong lễ trao giải Soul Train Music Awards, Mars cũng đã thắng giải Bài hát của Năm với "Nothin' on You" tại buổi lễ này.[32] Anh ấy cũng biểu diễn bài hát trong chương trình truyền hình Đức The Voice of Holland, trước khi tham gia chương trình "The Voice of America" ở Mỹ vào tháng 5.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Tải về dạng kỹ thuật số[33]
  1. "Grenade" – 3:42
  • Đĩa đơn CD Đức[34]
  1. "Grenade" (album version) – 3:45
  2. "Just the Way You Are" (Carl Louis & Martin Danielle Classic Mix) – 5:17
  • The Grenade Sessions đĩa mở rộng[35]
  1. "Grenade" – 3:45
  2. "Catch a Grenade" (The Hooligans Remix) – 3:30
  3. "Grenade" (Passion Pit Remix) – 6:10
  4. "Grenade" (acoustic) – 4:09
  5. "Grenade" (music video) – 3:40

Thành phần

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn:[36]

Bảng xếp hạng và doanh số chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành công trên các bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
Thứ tự chức vụ
Tiền nhiệm
"The Time (Dirty Bit)" bởi The Black Eyed Peas
"Who's That Girl" bởi Guy Sebastian featuring Eve
Đĩa đơn quán quân Australian Singles Chart
13 tháng 12 năm 2010 – 20 tháng 12 năm 2010
3 tháng 1 năm 2011 (á quân)
Kế nhiệm
"Who's That Girl" bởi Guy Sebastian hợp tác với Eve
"Who's That Girl" bởi Guy Sebastian hợp tác với Eve
Tiền nhiệm
"The Time (Dirty Bit)" bởi The Black Eyed Peas
Đĩa đơn quán quân New Zealand Singles Chart
20 tháng 12 năm 2010 – 3 tháng 1 năm 2011
Kế nhiệm
"Yeah 3x" bởi Chris Brown
Tiền nhiệm
"Firework" bởi Katy Perry
"Firework" bởi Katy Perry
"Hold It Against Me" bởi Britney Spears
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot 100
8 tháng 1 năm 2011[90]
22 tháng 1 năm 2011[91]
5 tháng 2 năm 2011 – 12 tháng 2 năm 2011 [92]
Kế nhiệm
"Firework" bởi Katy Perry
"Hold It Against Me" bởi Britney Spears
"Black and Yellow" bởi Wiz Khalifa
Tiền nhiệm
"When We Collide" bởi Matt Cardle
Đĩa đơn quán quân Irish Singles Chart
14 tháng 1 năm 2011 – 3 tháng 2 năm 2011
Kế nhiệm
"Price Tag" bởi Jessie J hợp tác với B.o.B
Tiền nhiệm
"Ewakuacja" bởi Ewa Farna
Đĩa đơn quán quân tại Ba Lan
5 tháng 3 năm 2011 – 1 tháng 4 năm 2011
Kế nhiệm
"Born This Way" bởi Lady Gaga
Tiền nhiệm
"What's My Name?" bởi Rihanna hợp tác với Drake
Đĩa đơn quán quân tại Liên hiệp Anh (UK Singles Chart)
16 tháng 1 năm 2011 – 30 tháng 1 năm 2011
Kế nhiệm
"We R Who We R" bởi Kesha
Tiền nhiệm
"Barbra Streisand" bởi Duck Sauce
Đĩa đơn quán quân tại Na Uy (VG-Lista)
17 tháng 1 năm 2011 – 6 tháng 2 năm 2011
Kế nhiệm
"Haba Haba" bởi Stella Mwangi
Tiền nhiệm
"The Time (Dirty Bit)" bởi The Black Eyed Peas
"More" bởi Usher
Đĩa đơn quán quân tại Canada (Canadian Hot 100)
22 tháng 1 năm 2011
12 tháng 2 năm 2011
Kế nhiệm
"Hold It Against Me" bởi Britney Spears
"Born This Way" bởi Lady Gaga
Tiền nhiệm
"Mikrofonkåt" bởi September
"Born This Way" bởi Lady Gaga
Đĩa đơn quán quân tại Thụy Điển (Swedish Singles Chart)
11 tháng 2 năm 2011 – 18 tháng 2 năm 2011
4 tháng 3 năm 2011 - 11 tháng 3 năm 2011
Kế nhiệm
"Born This Way" bởi Lady Gaga
"Popular" bởi Eric Saade
Tiền nhiệm
"Out of It" bởi Fallulah
Đĩa đơn quán quân tại Đan Mạch (Danish Singles Chart)
18 tháng 2 năm 2011 – 25 tháng 2 năm 2011
Kế nhiệm
"Mod solnedgangen" bởi Nik & Jay
Tiền nhiệm
"Rolling in the Deep" bởi Adele
"Born This Way" bởi Lady Gaga
Đĩa đơn quán quân tại Đức (German Singles Chart)
18 tháng 2 năm 2011 - 18 tháng 3 năm 2011
1 tháng 4 năm 2011 - 15 tháng 4 năm 2011
Kế nhiệm
"Born This Way" bởi Lady Gaga
"On The Floor" bởi Jennifer Lopez hợp tác bởi Pitbull
Tiền nhiệm
"Coming Home" bởi Diddy-Dirty Money hợp tác với Skylar Grey
Đĩa đơn quán quân tại Thụy Sĩ (Swiss Singles Chart)
20 tháng 2 năm 2011
Kế nhiệm
"Born This Way" bởi Lady Gaga

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Bruno Mars Soars to #1 on the Billboard Hot 100 Chart With Debut Single "Just The Way You Are"; Single Lands the Top Position on UK Midweek Chart; Elektra Artist Slated for October 9th Performance on Saturday Night Live; Dates Already Sold Out on First-Ever U.S. Headline Tour; "DOO-WOPS & HOOLIGANS," Arrives October 5th” (Thông cáo báo chí). Marketwire. ngày 22 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  2. ^ Bain, Becky (ngày 31 tháng 8 năm 2010). “Bruno Mars: The Idolator Interview”. Idolator. Buzz Media. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  3. ^ a b “Grenade: Bruno Mars Digital Sheet Music”. Musicnotes.com. Sony/ATV Music Publishing. |url= trống hay bị thiếu (trợ giúp); |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  4. ^ a b c Toor, Amar (ngày 5 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars, 'Grenade' -- New Song”. AOL Radio Blog. AOL. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  5. ^ Caramanica, Jon (ngày 5 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars in Ascension”. The New York Times. Arthur Ochs Sulzberger, Jr. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  6. ^ Kara, Scott (ngày 27 tháng 11 năm 2010). “Album Review: Bruno Mars Doo-wops and Hooligans. The New Zealand Herald. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.
  7. ^ Tucker, Ken (ngày 19 tháng 10 năm 2010). “Liking Bruno Mars Just The Way He Is”. NPR. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  8. ^ Lamb, Bill. “Bruno Mars - "Grenade". About.com. The New York Times Company. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  9. ^ Greenblatt, Leah (ngày 29 tháng 9 năm 2010). “Doo-Wops & Hooligans (2010)”. Entertainment Weekly. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  10. ^ Fennessey, Sean (ngày 5 tháng 10 năm 2010). 'Doo-Wops & Hooligans' indicates that Bruno Mars is primed for a durable career”. The Washington Post. Katharine Weymouth. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  11. ^ Mucciacciaro, Roberto (ngày 14 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars' 'Grenade' Channels Michael Jackson Circa 'Dirty Diana'. MTV. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  12. ^ Rosen, Jody (ngày 5 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars: Doo-Wops & Hooligans”. Rolling Stone. Jann Wenner. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  13. ^ Sendra, Tim. “Doo-Wops & Hooligans - Bruno Mars”. allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  14. ^ Henderson, Eric (ngày 7 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars: Doo-Wops & Hooligans”. Slant Magazine. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  15. ^ a b "Bruno Mars Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2010.
  16. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2011.
  17. ^ “Week Ending ngày 6 tháng 2 năm 2011: Songs: Katy Stands Alone - Yahoo! Chart Watch”. New.music.yahoo.com. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  18. ^ “Yahoo Music”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2011. Truy cập 25 tháng 11 năm 2015.
  19. ^ a b "Bruno Mars Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2011.
  20. ^ a b "Australian-charts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2010.
  21. ^ a b "Charts.nz – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2010.
  22. ^ “Bruno Mars Is On the Move; Major Slate of TV Appearances Scheduled, Including The 2010 GRAMMY Nominations Concert, Letterman, TODAY and the 2010 Soul Train Awards; Pair of Songs Set to Be Featured on FOX's Glee; Sold-Out Headlining Tour Gets Underway as Chart-Topping New Star Joins the Line-Ups at Radio-Sponsored Holiday Concerts Nationwide; "Grenade" Video Set to Premiere Across MTV Networks as Single Continues to Explode at Radio, Following a String of Double-Platinum Hits” (Thông cáo báo chí). Marketwire. ngày 11 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  23. ^ a b c Montgomery, James (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Bruno Mars Drags A Piano In 'Grenade' Video Sneak Peek”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
  24. ^ Copsey, Robert (ngày 21 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars”. Digital Spy. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  25. ^ Ryan, Chris (ngày 16 tháng 11 năm 2010). “Video Sneak Peek: Bruno Mars, 'Grenade'. MTV. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
  26. ^ a b Montgomery, James (ngày 19 tháng 11 năm 2010). “Bruno Mars' 'Grenade' Video: The Passion Of The Crooner”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2010.
  27. ^ MacDonald, John S. W. (ngày 26 tháng 8 năm 2010). “Hitmaker Bruno Mars Wows the Ladies in NY Debut”. Spin. Spin Media LLC. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2010.
  28. ^ Frazier, Walter (ngày 11 tháng 10 năm 2010). “Bruno Mars Performs 'Just The Way You Are' on 'SNL'. Billboard. New York City: Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  29. ^ Ziegbe, Mawuse (ngày 10 tháng 10 năm 2010). 'Glee' Star Jane Lynch Belts Tunes On 'Saturday Night Live'. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  30. ^ Binkert, Lisa. “Bruno Mars Live: Billboard Tastemakers”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  31. ^ Daw, Robbie (ngày 12 tháng 11 năm 2010). “Bruno Mars Launches His Bluesy "Grenade" On 'David Letterman'. Idolator. Buzz Media. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  32. ^ Hanek, Joel; Kaufman, Gil (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “Ronald Isley, Anita Baker Honored At Soul Train Awards”. MTV News. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2010.
  33. ^ “Grenade - Single”. iTunes Store Australia. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2010.
  34. ^ “Grenade (2track): Bruno Mars: Amazon.de: Musik”. Amazon.de. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2011.
  35. ^ “The Grenade Sessions - EP”. iTunes Store. Apple Inc. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2011.
  36. ^ Doo-Wops & Hooligans (CD booklet) |format= cần |url= (trợ giúp). Hoa Kỳ: 2-525393. 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |albumlink= (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |artist= (gợi ý |others=) (trợ giúp)
  37. ^ "Austriancharts.at – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  38. ^ "Ultratop.be – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2011.
  39. ^ "Ultratop.be – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2011.
  40. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 14. týden 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  41. ^ "Danishcharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  42. ^ "Lescharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011.
  43. ^ "Bruno Mars: Grenade" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2011.
  44. ^ "Musicline.de – Mars,Bruno Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  45. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2011.
  46. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2012.
  47. ^ "Chart Track: Week 2, 2011" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2011.
  48. ^ "Bruno Mars – Grenade Media Forest" (bằng tiếng Israel). Israeli Airplay Chart. Media Forest.
  49. ^ "Italiancharts.com – Bruno Mars – {{{song}}}" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
  50. ^ “Luxembourg Digital Songs - ngày 12 tháng 2 năm 2011”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2013.
  51. ^ "Nederlandse Top 40 – Bruno Mars" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2011.
  52. ^ "Norwegiancharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2011.
  53. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia:: Związek Producentów Audio-Video”. Polish Music Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2011.
  54. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  55. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 07. týden 2011. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  56. ^ “South Korea Gaon International Chart (Week: ngày 22 tháng 1 năm 2012 to ngày 28 tháng 1 năm 2012)”. Gaon Chart. ngày 15 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2012.
  57. ^ "Spanishcharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  58. ^ "Swedishcharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2011.
  59. ^ "Swisscharts.com – Bruno Mars – Grenade" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2011.
  60. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  61. ^ "Bruno Mars Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
  62. ^ "Bruno Mars Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2011.
  63. ^ "Bruno Mars Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2010.
  64. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  65. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Áo – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
  66. ^ “Ultratop − Goud en Platina – singles 2011” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien.
  67. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  68. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Đan Mạch – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Scroll through the page-list below until year 2011 to obtain certification.
  69. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Bruno Mars; 'Grenade')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  70. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "2011" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Grenade" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  71. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('Greande')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  72. ^ “NZ Singles Chart,9/5/2011”. Recording Industry Association of New Zealand. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
  73. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013. Chọn single trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Grenade vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  74. ^ Grein, Paul (ngày 23 tháng 5 năm 2013). “Week Ending ngày 19 tháng 5 năm 2013. Songs: Idol's Diminishing Returns”. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2013.
  75. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Bruno Mars – Grenade” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  76. ^ “ARIA Charts - End of Year Charts - Top 100 Singles 2010”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2011.
  77. ^ “HITLISTWEB - Official charts”. 212.182.166.241. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  78. ^ “ARIA 2011 Top 100 Albums Chart” (PDF). Australian Recording Industry Association (ARIA). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2012.
  79. ^ Steffen Hung (ngày 23 tháng 12 năm 2011). “Jahreshitparade 2011”. austriancharts.at. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  80. ^ “Best of 2011: Canadian Hot 100”. Billboard. 2011. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  81. ^ “Album-Top 100”. Hitlisten. IFPI Danmark& Nielsen Music Control. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2012.
  82. ^ “:: MTV | charts”. MTV. ngày 31 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  83. ^ “MAHASZ Rádiós TOP 100 2011” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  84. ^ Steffen Hung. “Dutch charts portal”. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  85. ^ “The Official New Zealand Music Chart”. THE OFFICIAL NZ MUSIC CHART. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập 26 tháng 3 năm 2015.
  86. ^ Steffen Hung. “Schweizer Jahreshitparade 2011”. hitparade.ch. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2012.
  87. ^ “The Top 40 Biggest Selling Singles of the Year”. BBC. ngày 31 tháng 12 năm 2011.
  88. ^ “Best of 2011: Hot 100 Songs”. Billboard. 2011. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011.
  89. ^ “Best of 2011: Billboard Pop Songs”. Billboard. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  90. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 29 tháng 12 năm 2010). “Bruno Mars Maneuvers to Top of Hot 100”. Billboard. Nielson Business Media, Inc. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2010.
  91. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 13 tháng 1 năm 2011). “Bruno Mars Continues Hot 100 No. 1 Rotation with 'Grenade'. Billboard. Nielson Business Media, Inc. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2011.
  92. ^ Trust, Gary (ngày 27 tháng 1 năm 2011). “Bruno Mars Returns To Hot 100 Summit, Britney Slips 5 Spots”. Billboard. Nielson Business Media, Inc. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2011.