Bước tới nội dung

Marta (cầu thủ bóng đá)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Marta Vieira da Silva)
Marta
Marta cùng đội Gold Pride vào tháng 9 năm 2010
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Marta Vieira da Silva
Ngày sinh 19 tháng 2, 1986 (38 tuổi)
Nơi sinh Dois Riachos, Alagoas, Brasil
Chiều cao 1,62 m (5 ft 4 in)[1]
Vị trí Tiền đạo
Thông tin đội
Đội hiện nay
Orlando Pride
Số áo 10
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
1999 Centro Sportivo Alagoano
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2000–2002 Vasco da Gama 16 (4)
2002–2004 Santa Cruz 38 (16)
2004–2008 Umeå IK 103 (111)
2009 Los Angeles Sol 20 (10)
2009–2010Santos (mượn) - (-)
2010 FC Gold Pride 25 (20)
2011 Santos - (-)
2011 Western New York Flash 14 (10)
2012–2014 Tyresö FF 38 (27)
2014–2017 FC Rosengård 43 (23)
2017– Orlando Pride 47 (17)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2002 U-19 Brasil
2002– Brasil 147[2] (112)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 11 tháng 5 năm 2019
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 23 tháng 6 năm 2019

Marta Vieira da Silva (sinh ngày 19 tháng 2 năm 1986), thường được gọi là Marta, là cầu thủ nữ bóng đá người Brasil hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Orlando Pride ở giải National Women's Soccer League của Hoa Kỳ và đội tuyển quốc gia Brasil. Cô hiện giữ kỉ lục ghi nhiều bàn thắng nhất tại các kỳ World Cup nữ với 15 bàn, vượt qua kỷ lục 14 bàn trước đó của Birgit Prinz.

Marta được coi là một trong những cầu thủ bóng đá nữ xuất sắc nhất thế giới từ trước tới nay, và được chính vua bóng đá Pelé đặt cho biệt danh Pele mặc váy.[3][4][5] Cô là chủ nhân của giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA 5 lần liên tiếp từ 2006 tới 2010. Cô cùng đội tuyển Brasil giành huy chương bạc Thế vận hội Mùa hè 20042008. Cô cũng giành giải Quả bóng vàng tại Giải vô địch bóng đá nữ U-19 thế giới 2004, cũng như giành các danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất và Vua phá lưới tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007 sau khi đưa đội tuyển Brasil vào đến trận chung kết.

Vào tháng 1 năm 2013 cô trở thành là một trong sáu đại sứ của Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 diễn ra ở Brasil, cũng với Amarildo, Bebeto, Carlos Alberto Torres, RonaldoMário Zagallo.[6]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Quãng thời gian ở Brasil

[sửa | sửa mã nguồn]

Marta được nữ huấn luyện viên Brasil là Helena Pacheco phát hiện khi cô 14 tuổi. Marta sau đó chơi bóng và tập luyện ở các cơ sở của câu lạc bộ nổi tiếng của bang Rio de Janeiro, Vasco da Gama, trong hai năm cho tới khi câu lạc bộ này ngừng tổ chức đội bóng đá nữ chuyên nghiệp vào năm 2001. Vào năm 2002 cô chơi cho một đội bóng nhỏ ở Minas Gerais.

Marta gia nhập Umeå IK trước thềm mùa giải 2004, mùa giải mà đội bóng này vào tới chung kết UEFA Women's Cup và giành chiến thắng với tổng tỉ số 8–0 trước 1. FFC Frankfurt bằng ba bàn của Marta trong hai lượt đấu. Tại giải vô địch quốc gia, họ vẫn phải về nhì dù nhiều hơn mặc dù ghi tới 106 bàn, nhiều hơn 32 bàn so với đội vô địch là Djurgården, nhưng thua đúng một điểm. Marta ghi 22 bàn tại giải vô địch, cũng như ghi bàn thắng duy nhất của Umeå trong thua 1–2 trước Djurgården ở chung kết.

Mùa giải thứ hai của cô (2005) kết thúc với 21 bàn thắng và danh hiệu vô địch quốc gia mà không để thua một trận nào cùng Umeå. Tuy nhiên Umeå một lần nữa bị Djurgården vượt qua 3–1 trong trận chung kết cúp quốc gia.

Vào năm 2006, Umeå tiếp tục bất bại lên ngôi, trong khi Marta, giống như năm trước, vẫn là vua phá lưới với 21 bàn. Tại UEFA Women's Cup, Umeå chiến thắng với tổng kết quả 11–1 trước đại diện của Na Uy là Kolbotn FK, trong đó Marta hai lần làm tung mành lưới đội bạn ở cả hai lượt trận. Tuy vậy họ lần thứ ba lỗi hẹn với chức vô địch cúp quốc gia Thụy Điển khi thua 3–2 trước Linköpings FC.

Mùa giải 2007 là một mùa giải thành công của Umeå khi họ giành chức vô địch quốc gia (nhiều hơn đội về nhì Djurgården 9 điểm),[7] và giành cúp quốc gia sau khi đánh bại AIK 4–3 trong trận đấu mà Marta ghi một cú hat-trick. Marta còn ghi 25 bàn tại Damallsvenskan, chỉ kém một bàn so với vua phá lưới năm đó là Lotta Schelin.[8] Tại UEFA Women's Cup họ vào tới chung kết nhưng thua với tổng tỉ số 1–0 trước Arsenal.

Mùa giải 2008 chững kiến Umeå và Marta giành thêm một chức vô địch Thụy Điển. Sau khi mùa giải kết thúc, các đồn đoán về tương lai của Marta bắt đầu dấy lên và chỉ vài tháng sau, trong lễ trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA vào tháng 1 năm 2009, Marta thông báo sẽ đầu quân cho Los Angeles Sol của Hoa Kỳ trong ba năm.[9][10][11]

Los Angeles Sol

[sửa | sửa mã nguồn]

Marta là vua phá lưới WPS 2009 với mười bàn thắng và 3 đường chuyền thành bàn.[12] The Sol là nhà vô địch của giải chính và lọt vào trận chung kết WPS Championship, để thua 1–0 trước Sky Blue FC.[13]

Trong quãng nghỉ hết mùa với Los Angeles Sol, cô ký hợp đồng mượn ba tháng với Santos để thi đấu ở Copa LibertadoresCopa do Brasil,[14][15] giúp đội giành chiến thắng ở cả hai giải đấu này với thành tích ghi một bàn trong trận chung kết Libertadores và hai bàn trong trận chung kết Copa do Brasil.[16][17]

FC Gold Pride

[sửa | sửa mã nguồn]
Marta tại WPS Championship 2010

Tháng 1 năm 2010, Sol giải thể[18] nên Marta và các đồng đội có tên trong đợt tuyển quân của giải WPS. Marta sau đó được FC Gold Pride chọn ngay trong lần chọn đầu tiên.[19] Cô xuất hiện trong tất cả 24 trận của Pride và ghi 19 bàn, qua đó nhận giải thưởng WPS MVP (Cầu thủ xuất sắc nhất) và WPS Golden Boot (Vua phá lưới) năm thứ hai liên tiếp.

Pride cũng là nhà vô địch của giải WPS chính và chiến thắng trong trận tranh ngôi vô địch WPS Championship với Philadelphia Independence. Trong trận đấu này Marta có hai pha kiến tạo thành bàn và nhận danh hiệu MVP.[20] Cô trở thành cầu thủ tự do sau khi Gold Pride giải thể vào ngày 17/11/2010.

Trở lại Santos

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 12, 2010 Marta trở lại Santos để thi đấu ở Copa Libertadores và Copa do Brasil.[21]

Western New York Flash

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 25/1/2011, Marta gia nhập câu lạc bộ thứ ba của giải WPS trong ba năm là Western New York Flash, đội bóng sẽ nắm hợp đồng năm thứ ba của cô ở Gold Pride.[22] Đầu mùa giải Marta giúp Flash khởi đầu ấn tượng bằng 2 bàn thắng và 4 đường kiến tạo. Cô tiếp tục đưa đội bóng tới chúc vô địch Regular Season, có được bàn thắng thứ 10 trong mùa giải trong chiến thắng 2–0 trước Atlanta Beat và giành giải PUMA Golden Boot cho cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất giải.[23]

Tyresö FF

[sửa | sửa mã nguồn]
Marta được Anna Brolin của kênh TV4 phỏng vấn vào năm 2013

Do WPS hủy bỏ mùa giải 2012, Marta quyết định trở lại Thụy Điển. Vào ngày 22/2/2012 cô ký hợp đồng hai năm với Tyresö FF.[24] Mức lương cô nhận được trong một mùa là khoảng 400.000 đôla[25][26] và được các nhà tài trợ của câu lạc bộ chi trả.[27] Tyresö lần đầu tiên giành chức vô địch Damallsvenskan vào năm 2012 còn Marta có chức vô địch quốc gia thứ năm.[28]

Marta ghi hai bàn trong trận thua 4–3 của Tyresö trước Wolfsburg tại chung kết UEFA Women's Champions League 2014.[29] Tuy nhiên Tyresö sau đó bị suy sụp về tài chính vào năm 2014 và rút lui khỏi Damallsvenskan 2014, buộc phải xóa bỏ mọi kết quả trong mùa giải và các cầu thủ trong đội trở thành cầu thủ tự do.

Rosengård

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 7 năm 2014 cô ký hợp đồng có thời hạn sáu tháng với điều khoản gia hạn một năm với FC Rosengård của Thụy Điển.[30]

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 26 tháng 7 năm 2007, Marta và đội tuyển nữ Brasil đánh bại đội tuyển U-20 Hoa Kỳ để giành chức vô địch Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ trên sân Maracanã trước sự chứng kiến của 68.000 người. Cô được người hâm mộ Brasil gọi là "Pelé de saias" (tạm dịch: "Pelé mặc váy"). Chính Pelé cũng đồng ý với sự ví von này. Marta cũng nói rằng ông cũng đã gọi điện cho cô để chúc mừng chiến thắng và cô cực kỳ hạnh phúc khi biết một cầu thủ vĩ đại như vậy theo dõi trận đấu của đội.[31]

Marta mặc chiếc áo số 10

Marta cùng Brasil dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2007, vượt qua vòng bảng với ba trận toàn thắng, trong đó Marta có bốn bàn cho riêng mình. Tại tứ kết Brasil thắng 3–2 trước Úc trong đó có bàn thắng từ chấm phạt đền của Marta. Tại bán kết Marta ghi hai bàn giúp Brasil thắng 4–0 trước Hoa Kỳ — trong đó bàn thứ hai thể hiện kỹ thuật tuyệt vời của cố. Tuy vậy Brasil để thua 2–0 trước Đức ở trận chung kết. Marta thậm chí còn bỏ lỡ quả phạt đền ở giữa hiệp hai để cân bằng tỉ số trận đấu. Niềm an ủi của cô là danh hiệu Quả bóng vàng và Chiếc giày vàng (nhờ thành tích 7 bàn) của World Cup nữ 2007.

Marta cũng thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2008 và giành được huy chương bạc sau khi để thua một bàn trước Hoa Kỳ.[32]

Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2011 Brasil bị Hoa Kỳ loại ngay từ tứ kết. Với bốn bàn và hai kiến tạo tại giải này, cô đã có tổng cộng 14 bàn thắng tại các kỳ World Cup, san bằng thành tích của Birgit Prinz của Đức,[33] đồng thời nhận danh hiệu Chiếc giày bạc của giải.

Cô chính thức trở thành vua phá lưới World Cup nữ mọi thời đại vào năm 2015 sau bàn thắng trong chiến thắng trận mở màn World Cup tại Canada của Brasil trước Hàn Quốc.[34]

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê tính từ năm 2009.

Tính đến 11 tháng 5 năm 2019.[35]
Câu lạc bộ Mùa giải Giải quốc gia Cúp quốc gia Cúp châu lục Tổng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Los Angeles Sol 2009 20 10 - - - - 20 10
Santos FC 2009 - - 7 18 6 7 13 25
FC Gold Pride 2010 25 20 - - - - 25 20
Santos FC 2011 - - - - 4 2 4 2
Western New York Flash 2011 15 10 - - - - 15 10
Tyresö FF 2012 21 12 4 4 - - 25 16
2013 15 12 1 1 4 1 20 14
2014 2 3 1 1 8 7 11 11
FC Rosengård 2014 9 5 5 2 6 4 20 11
2015 21 8 1 1 6 4 28 13
2016 11 9 3 3 6 5 20 17
Orlando Pride 2017 24 13 24 13
2018 17 4 17 4
2019 6 0 6 0
Tổng 194 110 27 31 36 25 257 166

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]
Marta trong Trận đấu chống đói nghèo năm 2014 tại Bern, Thụy Sĩ
Marta và Dilma Rousseff vào năm 2011

Câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]
Umeå IK
Santos
FC Gold Pride
  • WPS Championship: 2010
Western New York Flash
  • WPS Championship: 2011
Tyresö FF
  • Damallsvenskan: 2012
FC Rosengård
  • Damallsvenskan: 2014

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Marta là con của ông bà Aldário và Tereza, có ba anh chị em là José, Valdir, và Angela. Vào ngày 11/10/2010, Marta được chọn là Đại sứ Thiện chí của Liên Hợp Quốc.[38] Marta thành thạo tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Thụy Điển, và tiếng Anh. Cô là một tín đồ Ki tô giáo và nói rằng Thiên Chúa là điều rất quan trọng đối với cô dù cô không thường xuyên đi lễ nhà thờ.[39]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Danh sách đội hình WC 2015” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2016.
  2. ^ “Profile”. FIFA.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2015.
  3. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2016.
  4. ^ http://www.foxsports.com.au/football/womens-world-cup-2015-meet-marta-the-best-of-all-time-who-stands-in-the-way-of-australia/story-e6frf423-1227405275137
  5. ^ Panja, Tariq (ngày 8 tháng 6 năm 2015). “Best-Ever Female Player Marta Misses Soccer's Millions”. Bloomberg.
  6. ^ “Brazil 2014 Ambassadors Named”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2016.
  7. ^ “Tabell och resultat – Damallsvenskan”. svenskfotboll.se (bằng tiếng Thụy Điển). Svenska Fotbollförbundet. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.
  8. ^ “Skytteliga 2007”. svenskfotboll.se (bằng tiếng Thụy Điển). Svenska Fotbollförbundet. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.
  9. ^ Wåhlin, Johan (ngày 12 tháng 1 năm 2009). “Marta bäst i världen – flyttar till LA”. dn.se (bằng tiếng Thụy Điển). Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.
  10. ^ “The Fabulous Forum”. Los Angeles Times. ngày 12 tháng 1 năm 2009.
  11. ^ “Newly crowned Marta to join US league”. FIFA. ngày 12 tháng 1 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  12. ^ “Marta! Marta! Marta!: LA Sol Star Named FIFA Women's Player of the Year”. Bleacher Report. ngày 22 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2014.
  13. ^ Herbert, Steven (ngày 7 tháng 1 năm 2010). “NJ Sky Blue Eclipse LA Sol 1-0 in Championship”. NBC Los Angeles. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2014.
  14. ^ Adilson Barros (ngày 1 tháng 8 năm 2009). “Peixe anuncia Marta, que deverá receber a camisa 10 das mãos de Pelé” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). GloboEsporte.com. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2009.
  15. ^ womensprosoccer.com Lưu trữ 2009-10-19 tại Wayback Machine; International Report: WPS Stars Head Overseas in the Off-Season
  16. ^ 'Sereias da Vila' dão show e Santos é campeão da Libertadores” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). iG. ngày 18 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  17. ^ “Santos bate Botucatu e conquista a Copa do Brasil feminina” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Estadão. ngày 1 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  18. ^ foxnews.com; Los Angeles Sol of WPS folds after first season
  19. ^ “Four-Time FIFA World Player of the Year Marta to Join the Pride”. FC Gold Pride. ngày 4 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2010.[liên kết hỏng]
  20. ^ “Marta named MVP of 2010 WPS Championship”. ngày 27 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2010. [liên kết hỏng]
  21. ^ estadao.com.br; Santos confirma acerto com Marta por dois meses, (tiếng Bồ Đào Nha) 9/12/2010.
  22. ^ womensprosoccer.com Lưu trữ 2011-07-18 tại Wayback Machine; Western New York Flash acquire Marta; 25/1/2011.
  23. ^ “Flash Forward Marta Captures Third Consecutive PUMA Golden Boot Award”. svenskfotboll.se. womensprosoccer. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2009.[liên kết hỏng]
  24. ^ “Marta returns to Sweden with Tyresö”. UEFA. ngày 22 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  25. ^ “Marta signs with Tyreso FF”. bigapplesoccer.com. ngày 22 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  26. ^ “Marta's agent in talks with four Swedish clubs Tyresö FF, Malmö, Linköping and Umeå”. womenssoccerunited.com. ngày 26 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  27. ^ “Marta transfers to Tyresö FF” (bằng tiếng Đức). womensoccer.de. ngày 22 tháng 2 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  28. ^ Cleris, Johannes (ngày 3 tháng 11 năm 2012). “Tyresö vann SM-guld efter dramatik” (bằng tiếng Thụy Điển). Dagens Nyheter. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2013.
  29. ^ Saffer, Paul (ngày 22 tháng 5 năm 2014). “Müller the hero again as Wolfsburg win classic final”. UEFA. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2014.
  30. ^ “Equalizer Soccer – Marta stays in Sweden, signs with FC Rosengård”. Truy cập 11 tháng 7 năm 2016.
  31. ^ “GloboEsporte.com > Pan2007 > Futebol Pan2007 – NOTÍCIAS – Pelé diz que Marta é Pelé de saias”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2016.
  32. ^ “US women hope Solo keeps Brazil's Marta from finding the net”. Al Arabiya. ngày 10 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2011.
  33. ^ “Recap: Brazil vs. United States”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
  34. ^ Marta faz de pênalti e se torna a maior goleadora da história das Copas, Universo Online (tiếng Bồ Đào Nha)
  35. ^ “Marta - Brazil”. Soccerway. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016.
  36. ^ "Allsvenska skyttedrottningar 1982–." Svenskfotboll.se. Truy cập 2012-03-28. (tiếng Thụy Điển)
  37. ^ Lawrence, Andrew (ngày 22 tháng 12 năm 2009). “2000s: Top 20 Female Athletes”. Sports Illustrated. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2009.
  38. ^ “Brazilian star Marta to be UN goodwill ambassador”. SI.com. ngày 11 tháng 10 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  39. ^ “Abbey Road - Sunday Guest Marta Vieira Da Silva (English Translation)”. Women's Soccer United. ngày 27 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Friedman, Ian C. (2007), Latino Athletes, Infobase Publishing, ISBN 1438107846
  • Grainey, Timothy (2012), Beyond Bend It Like Beckham: The Global Phenomenon of Women's Soccer, Nhà xuất bản Đại học Nebraska, ISBN 0803240368
  • Kassouf, Jeff (2011), Girls Play to Win Soccer, Norwood House Press, ISBN 1599534649
  • McDougall, Chrös (2012), Soccer, ABDO, ISBN 1614785554
  • Richards, Ted (2013), Soccer and Philosophy: Beautiful Thoughts on the Beautiful Game, Open Court, ISBN 0812696824
  • Stevens, Dakota (2011), A Look at the Women's Professional Soccer Including the Soccer Associations, Teams, Players, Awards, and More, BiblioBazaar, ISBN 1241047464
  • Velázquez de León, Mauricio (2010), 20 Soccer Superstars, The Rosen Publishing Group, ISBN 1615329471

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiền nhiệm:
Birgit Prinz
Cầu thủ nữ xuất sắc nhất năm của FIFA
2006, 2007, 2008, 2009, 2010
Kế nhiệm:
Sawa Homare