Bước tới nội dung

Femme Fatale (album của Britney Spears)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Femme Fatale
Bìa bản tiêu chuẩn, bìa bản cao cấp sẽ có chữ vàng.
Album phòng thu của Britney Spears
Phát hành25 tháng 3 năm 2011 (2011-03-25)
Thu âm12 tháng 7, 2009 – 8 tháng 2, 2011
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng44:00
Hãng đĩaJive
Sản xuất
Thứ tự album của Britney Spears
The Singles Collection
(2009)
Femme Fatale
(2011)
B in the Mix: The Remixes Vol. 2
(2011)
Đĩa đơn từ Femme Fatale
  1. "Hold It Against Me"
    Phát hành: 10 tháng 1, 2011
  2. "Till the World Ends"
    Phát hành: 4 tháng 3, 2011
  3. "I Wanna Go"
    Phát hành: 14 tháng 6, 2011
  4. "Criminal"
    Phát hành: 30 tháng 9, 2011

Femme Fatale là album phòng thu thứ bảy của ca sĩ người Mỹ Britney Spears, phát hành ngày 25 tháng 3 năm 2011 bởi Jive Records. Đây là album cuối cùng của cô hợp tác với Jive trước khi hãng đĩa giải thể vào cuối năm này và Spears được chuyển đến RCA Records. Với mong muốn tạo nên một "album dance dữ dội" với "âm thanh tươi mới", Femme Fatale kết hợp phong cách âm nhạc của dance-pop, electropop, EDMsynth-pop bên cạnh những ảnh hưởng từ nhạc dubstep, technoelectro. Spears bắt đầu triển khai album trong chặng thứ hai của chuyến lưu diễn The Circus Starring Britney Spears (2009), cùng thời điểm thực hiện album tuyển tập thứ hai của cô The Singles Collection (2009), trong đó nữ ca sĩ hợp tác với một loạt nhà sản xuất khác nhau như Max Martin, Dr. Luke, Fraser T Smith, Rodney Jerkins, Bloodshy, will.i.am, StargateTravis Barker.

Sau khi phát hành, Femme Fatale đa phần nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao phong cách dance-pop và khâu sản xuất của album, nhưng cũng vấp phải một số ý kiến trái chiều về chất giọng của Spears bị xử lý quá mức và việc nữ ca sĩ ít tham gia vào quá trình sáng tác. Tuy nhiên, đĩa hát đã gặt hái nhiều thành công lớn về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc, Brazil, Canada, Mexico, Nga và Hàn Quốc, đồng thời lọt vào top 10 ở 24 quốc gia khác, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Pháp, Ireland, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thụy Sĩ. Tại Hoa Kỳ, Femme Fatale ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 276,000 bản, trỏ thành album quán quân thứ sáu của Spears và giúp cô trở thành nghệ sĩ trẻ nhất đạt được thành tích trên.

Bốn đĩa đơn đã được phát hành từ Femme Fatale, trong đó đĩa đơn đầu tiên "Hold It Against Me" dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ngay trong tuần đầu và phá vỡ kỷ lục về lượng tải nhạc số ở tuần ra mắt lúc bấy giờ. Hai đĩa đơn tiếp theo "Till the World Ends" và "I Wanna Go" lần lượt đạt vị trí thứ ba và thứ bảy tại Hoa Kỳ, giúp album trở thành đĩa hát đầu tiên của Spears có ba đĩa đơn vuơn đến top 10. Đĩa đơn thứ tư và cuối cùng, Criminal" đạt vị trí quán quân ở Brazil và lọt vào top 20 ở một số quốc gia. Để quảng bá album, nữ ca sĩ thực hiện chuyến lưu diễn thứ tám trong sự nghiệp Femme Fatale Tour với 79 đêm diễn và đi qua Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu Á và Mỹ Latinh. Ngoài ra, Spears cũng tham gia trình diễn trên những chương trình truyền hình và hợp tác trong nhiều bản phối lại với Kesha, Nicki MinajRihanna. Tính đến tháng 2 năm 2014, Femme Fatale đã bán được 2.4 triệu bản trên toàn thế giới.[1]

Tổng quan và quá trình phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn "S&M" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

Ngày 12 tháng 7 năm 2009, Spears xác nhận qua tài khoản Twitter cá nhân rằng cô đang bắt đầu thu âm những bản nhạc mới, đồng thời tiết lộ việc hợp tác với nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất người Thụy Điển Max Martin,[2] trong khoảng thời gian cô lưu diễn ở Stockholm trong chặng Châu Âu của The Circus Starring Britney Spears. Những buổi thu âm tạo nên một số thành phẩm cho album cũng như bài hát "3", sau đó được phát hành dưới dạng đĩa đơn từ album tuyển tập thứ hai của Spears The Singles Collection (2009).

Vào tháng 6 năm 2010, trong một cuộc phỏng vấn với Rap-Up, Danja tiết lộ rằng anh đã làm việc với Spears trong quá trình tiền sản xuất của Femme Fatale.[3] Darkchild, người cũng được cho là đang hợp tác với cô, chia sẻ trên Ustream vào tháng 8 năm 2010 rằng "Người hâm mộ Britney sẽ rất hạnh phúc trong vài tuần nữa", ám chỉ đến việc phát hành bài hát mới. Tuy nhiên, quản lý của Spears Adam Leber phủ nhận thông tin trên, tuyên bố rằng "Hiện tại không có tin tức nào về nhạc mới cả.... Mong mọi người không lan truyền thông tin gây hiểu lầm cho khán giả. Không hay chút nào! Tái bút- Những người ĐANG làm việc cho album tiếp theo của Brit vẫn CHƯA HỀ nói gì về điều đó..."[4] Leber sau đó trả lời phỏng vấn với Entertainment Weekly, gọi âm nhạc của Femme Fatale là "tiến bộ" và "khác biệt với những gì bạn từng nghe."[5] Vào tháng 11 năm 2010, Dr. Luke thông báo rằng anh sẽ đóng vai trò điều hành sản xuất cho album, cùng với Max Martin.[6] Spears giải thích trong một buổi phỏng vấn với Rolling Stone rằng cô từng làm việc với Luke trong quá trình sản xuất Blackout (2007), nhận xét rằng anh "rất tuyệt vời" trong khoảng thời gian đó và kỹ năng của anh đã được cải thiện.[7] Cô cũng nói rằng Martin là người đồng hành với cô từ khi bắt đầu sự nghiệp và "khiến [cô] thoải mái hơn bất kỳ ai từng hợp tác trong phòng thu".[7] Vào ngày 2 tháng 12 năm 2010, nhân ngày sinh nhật lần thứ 29 của cô, Spears cảm ơn người hâm mộ vì những lời chúc mừng và thông báo, "Tôi sắp hoàn thành album mới và sẽ ra mắt vào tháng 3 này."[8]

Thu âm và sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 7 năm 2009, Spears thông báo rằng cô đang bắt đầu thu âm dự án mới với cộng tác viên lâu năm Max Martin.[9] Spears thể hiện mong muốn tạo nên một album "có âm thanh mới mẻ [...] cho câu lạc bộ hoặc khiến bạn phấn khích khi mở nhạc trong xe hơi lúc ra ngoài vào ban đêm, nhưng tôi cũng muốn album có âm thanh khác biệt với mọi thứ ở hiện tại." Spears cũng tuyên bố rằng cô muốn đảm bảo Femme Fatale sẽ hoàn toàn mới mẻ so với album phòng thu trước của cô Circus (2008).[7] Sau khi "Hold It Against Me" được sáng tác, Luke và Martin ban đầu muốn đưa bài hát cho Katy Perry, nhưng sau đó họ quyết định rằng bản nhạc không phù hợp với cô. Họ tiếp tục làm việc với Billboard và Luke nhận xét rằng trước khi đưa "Hold It Against Me" cho Spears, anh muốn đảm bảo rằng bài hát sẽ có âm nhạc khác với những tác phẩm trước đây của anh.[10] Darkchild tuyên bố rằng khi làm việc với nhau, Spears rất "thực tế" và "có rất nhiều ý tưởng cho [anh ấy]."[11] Sau đó, anh tiết lộ đã sản xuất hai bài hát cho album, một trong số đó có sự góp mặt của Travis Barker. Darkchild nói thêm rằng bản nhạc "[có] chút hơi hướng rock nằm ngoài khuôn khổ, nằm ngoài chuẩn mực của tôi, và tôi nghĩ cũng nằm ngoài chuẩn mực của cô ấy."[12] Nhà sản xuất điều hành Dr. Luke tuyên bố rằng "[Tôi cảm thấy như] Britney có thể loại riêng của cô ấy: Nếu bạn nhìn lại những bài hát như "Toxic", "Piece of Me" hay "Oops!... I Did It Again", tất cả chúng đều có sức ảnh hưởng và dẫn đầu [...] Cô ấy muốn tiếp tục theo đuổi điều đó và làm những thứ 'có tư duy tiến bộ', vì vậy, chúng tôi đưa một số thứ dubstep vào album, trong những đoạn bridge; và lén lút đặt vào nhiều chỗ khác nhau."[13]

Spears trình diễn "Hold It Against Me" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

Dr. Luke tiết lộ vào tháng 2 năm 2011 rằng danh sách bài hát cuối cùng vẫn chưa được thống nhất.[10] Cũng trong cuối tháng, Spears làm việc với will.i.am.[14] Spears sau đó chia sẻ rằng cô là một người hâm mộ của Black Eyed Peas và rất muốn được hợp tác với will.i.am một lần nữa trong tương lai.[7] Cô cũng nói rằng cô biết đến Sabi thông qua một người bạn giới thiệu và luôn muốn giới thiệu nghệ sĩ mới trong những album của cô, do đó họ thu âm "(Drop Dead) Beautiful".[7] Nhà sản xuất người Anh Fraser T Smith làm việc với Spears trong ba bản nhạc và khen ngợi đạo đức nghề nghiệp của cô, nói rằng giọng hát của nữ ca sĩ rất mạnh mẽ và cô rất tập trung vào âm nhạc.[15] William Orbit xác nhận ông đã đồng sáng tác một bài hát cho Spears với Klas Åhlund, nhưng thành phẩm lại không được chọn cho danh sách cuối cùng.[14] Orbit tuyên bố rằng ông không hài lòng với quyết định và bình luận, "[V]ề chuyện Britney. Này, tôi đã đến trại sáng tác ở Teresa. Một khoảng thời gian tuyệt vời. Rồi tin đồn lan truyền. Mọi người đưa ra giả định. Dr Luke là điều hành sản xuất và anh ta tương tác với những ai anh ta thích. Và (tôi có nghe bạn hỏi) B ở đâu trong tất cả chuyện này đúng không? Tôi hoàn toàn không biết. [C]ó một bài hát [với] Klas Ahlund, người sáng tác 'Piece of Me'. Và bản nhạc rất tuyệt. Nhưng rõ ràng là không nằm trong [Femme Fatale]. Nhưng dù thế nào thì một bài hát hay thì vẫn là một bài hát hay."[16]

Nhạc và lời

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiều nhà phê bình âm nhạc ghi nhận phong cách electropop, dance-pop, EDMsynth-pop trong Femme Fatale.[17][18][19][20][21] Nhà phê bình Jody Rosen viết về album, "Khái niệm rất đơn giản: một bản thu âm tiệc tùng với tràn ngập tình dục và nỗi buồn".[22] Femme Fatale được so sánh với những đĩa hát trước của Spears, như In the Zone (2003), Blackout (2007) và Circus (2008).[23][24] Mặc dù bị chỉ trích vì không tham gia vào quá trình sản xuất và sáng tác album, Spears viết "Scary", do Fraser T Smith sản xuất và được đưa vào phiên bản cao cấp của album tại Nhật Bản.[25] Album mở đầu bằng "Till the World Ends", đồng sáng tác bởi Kesha, được mô tả là một bản dance-pop và electropop sôi động, với nhịp điệu electro và những ảnh hưởng của technoEurodance.[17][26][27][28] Bài hát mở đầu bằng tiếng còi báo động và một đoạn bassline "nóng bỏng".[29][30] Nhiều nhà phê bình khen ngợi "chất thánh ca" và "điệp khúc như hô hào" của bài hát. Bài hát thứ hai và cũng là đĩa đơn mở đường "Hold It Against Me" là một bản dance-pop có nhịp điệu industrial, trong đó đoạn cao trào chịu ảnh hưởng của dubstep và kết hợp những yếu tố của grime,[31] trong khi phần điệp khúc cuối chịu ảnh hưởng của rave. Lời bài hát nói về một cô gái quyến rũ ai đó trên sàn nhảy, với đoạn điệp khúc xoay quanh những câu tán tỉnh, khi Spears hát: "If I said I want your body now, would you hold it against me?".[a][32] "Hold It Against Me" và Spears được Rick Florino của Artistdirect khen ngợi vì "bước vào lãnh địa mới và một lần nữa mở rộng ranh giới của dance-pop."[33] Bài hát thứ ba "Inside Out" là một bản electropop kết hợp với dubstep và R&B, được bổ sung thêm "tiếng synth như rung chuyển trái đất".[34][35] Bản nhạc được khen ngợi bởi quá trình sản xuất phức tạp và được so sánh với nhiều tác phẩm trước đó của cô trong In the ZoneCircus, cũng như âm nhạc của Janet Jackson và album Ray of Light (1998) và đĩa đơn "Music" (2000) của Madonna.[23][36] Spears hát ở phần điệp khúc: "Baby shut your mouth and turn me inside out",[b][37] và sau đó tiếp tục với "Hit me one more time it's so amazing"[c] và "You're the only one who's ever drive me crazy",[d] ám chỉ đến những bài hát của cô "...Baby One More Time" và "(You Drive Me) Crazy".[38] "I Wanna Go", bản nhạc thứ tư, là một bài hát dance-pop và Hi-NRG, kết hợp yếu tố của techno và nhiều đoạn bassline.[39][40] Bài hát còn sở hữu giai điệu huýt sáo. Trong phần điệp khúc, cô hát: "I-I-I wanna go-o-o / All the wa-a-ay / Taking out my freak tonight".[e][41] Một số phân đoạn của "I Wanna Go" được so sánh với album của cô Blackout.[24]

"How I Roll" là bản nhạc thứ năm, được sản xuất bởi Bloodshy, Henrik JonbackMagnus, trong đó Spears "cuốn theo hiệu ứng hít vào thở ra liên tục", và được mô tả là "một bản pop vui tươi, sôi động".[42] Giọng hát của Spears thay đổi rất nhiều, được đưa qua nhiều bộ lọc biến dạng. Bài hát sử dụng tiếng vỗ tay liên tục, với nhiều yếu tố được so sánh với "Strawberry Bounce" của Janet Jackson.[43] Bài hát thứ sáu và thứ bảy "(Drop Dead) Beautiful" và "Seal It With a Kiss" được Christopher Kostakis của Samesame.com.au bình luận như "chất làm đầy".[23] Tuy nhiên, Keith Caulfield của Billboard chỉ ra rằng "với những câu ghép vui nhộn như 'your body looks so sick, I think I caught the flu'[f] và 'you must be B.I.G. because you got me hypnotized'[g] -- '[Drop Dead] Beautiful' đem lại cảm giác dễ chịu"[44] "Big Fat Bass" là bản nhạc thứ tám của Femme Fatale, và được giới chuyên môn nhận xét "bám sát vào những tinh túy của sàn nhảy".[45] Bài hát được Idolator ghi nhận là hấp dẫn, nhưng lặp đi lặp lại.[46] "Trouble for Me", bài hát thứ chín trong album, với đoạn tiền điệp khúc "đầy tiếng synth tan chảy, khò khè" giống như "tiếng rung của Wiley", chuyển sang "chất giọng của Janet Jackson."[47] Giọng hát của Spears được xử lý Auto-Tune, nhưng chất giọng của cô được mô tả là "thô" với tông giọng "gợi cảm" và "độc nhất vô nhị".[43] "Criminal", bài hát cuối cùng trong bản tiêu chuẩn của album, là một bản có nhịp độ trung bình được dẫn dắt bới tiếng guitar, kết hợp giai điệu sáo theo phong cách dân gian.[23][45] Seattle Weekly của Seattle Weekly nói rằng bài hát "thoát khỏi tiếng synth mạnh mẽ và dồn dập, thay vào đó là nhịp guitar đều đặn và giai điệu sáo dân gian châu Á kỳ lạ."[48] Trong vài đoạn, Spears hát về việc yêu một chàng trai hư và sống ngoài vòng pháp luật, với lời bài hát như "He is a hustler / He's no good at all / He is a loser, he's a bum, bum, bum, bum"[h] và "He is a bad boy with a tainted heart / And even I know this ain't smart".[i] Trong phần điệp khúc, cô cầu xin mẹ mình đừng lo lắng bằng những câu như "But mama I'm in love with a criminal"[j] và "Mama please don't cry / I will be alright."[k][43]

Theo Billboard, "Up n' Down" "đưa mọi người trở lại sàn nhảy, nơi chúng ta hình dung về một Spears hung hăng, đầy thất thường".[44] "He About to Lose Me" là một bản ballad chịu ảnh hưởng của pop rock, được nhìn nhận là "một cú đấm mạnh về cảm xúc. Spears hát về việc ở câu lạc bộ, bị mê hoặc bởi một người đàn ông cô vừa tiếp xúc -- trong khi vẫn nghĩ về người yêu hiện tại đang ở nhà. Cô ấy sẽ rời câu lạc bộ với chàng trai mới chứ? Hay cô sẽ về nhà với người đàn ông của mình -- một anh chàng cô không chắc là còn yêu cô nữa không?"[44] Bài hát cuối cùng trong bản cao cấp, "Don't Keep Me Waiting", được mô tả là "một khoảnh khắc new wavey rock của Spears, nơi tiếng guitar được kết hợp với âm thanh nghe như tiếng trống dùng trong nhà thi đấu."[44] Bản nhạc được đưa vào bản cao cấp tại Nhật Bản của album "Scary" là một tác phẩm dance sôi động với nội dung về cuộc săn đuổi của Spears: "I just want your body, and I know that you want mine",[l] Khi điệp khúc mở ra, Spears thể hiện sự ham muốn của bản thân: "It's scary, yeah / I think I need some hypnotherapy / I want you so bad it's scary."[m][49]

Tiêu đề và hình ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 2 năm 2011, Spears công bố tiêu đề album thông qua tài khoản Twitter cá nhân và đăng tải bìa album.[50] Spears chia sẻ:

Tôi đã dồn hết tâm huyết vào album này suốt 2 năm qua. Tôi đặt hết mọi thứ tôi có vào đây. Album này là cho các bạn, những người hâm mộ của tôi, những người luôn ủng hộ và sát cánh cùng tôi trên mọi bước đường! Tôi yêu tất cả các bạn! Gợi cảm và Mạnh mẽ. Nguy hiểm nhưng bí ẩn. Ngầu nhưng tự tin! FEMME FATALE.[50]

Ngay sau thông báo, tiêu đề trở thành chủ đề thịnh hành trên Twitter, và sau đó trở thành xu hướng tồn tại lâu thứ mười trên nền tảng, cũng như là xu hướng liên quan đến âm nhạc đầu tiên lọt vào top 10.[51]

Bìa album được chụp bởi Randee St. Nicholas với hình ảnh cận mặt Spears, cô mặc một chiếc váy trắng có lông trắng trên vai.

Trong một bài viết về "lịch sử trao quyền, phân biệt giới tính của người đàn bà nguy hiểm", Scott Meslow viết cho The Week, "Và khi nguyên mẫu người đàn bà nguy hiểm chuyển sang trao quyền cho phụ nữ, một số phụ nữ [như Britney] bắt đầu sở hữu nó một cách công khai."[52]

Phát hành và quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn "Till the World Ends" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

Femme Fatale được phát hành vào ngày 25 tháng 3 năm 2011 tại Châu Âu và Châu Đại Dương, và bốn ngày sau đó tại Hoa Kỳ bởi Jive Records với hai phiên bản tiêu chuẩn và cao cấp. Đợt quảng bá đầu tiên bao gồm một cuộc phỏng vấn với Ryan Seacrest, trước khi chiến dịch quảng bá album bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 năm 2011, với một buổi trình diễn gồm "Hold It Against Me", "Till the World Ends" và "Big Fat Bass". Đêm diễn được quay tại Rain Nightclub bên trong Palms Casino Resort và đưa vào chương trình đặc biệt của MTV mang tên Britney Spears: I Am the Femme Fatale, phát sóng ngày 3 tháng 4 năm 2011.[53] Quản lý của Spears, Larry Rudolph, giải thích về sự lựa chọn địa điểm biểu diễn trong một cuộc phỏng vấn với MTV, nói rằng, "Chúng tôi chọn Palms vì đây là nơi Britney có rất nhiều lịch sử. Chúng tôi từng biểu diễn ở đây với album Britney, nên chúng tôi quyết định trở lại. Chúng tôi thực hiện điều này sau tám năm và làm điều đó vì người hâm mộ." Rudolph cũng giải thích rằng mục tiêu chính của nữ ca sĩ trong kỷ nguyên Femme Fatale là đem đến sự giải trí cho người hâm mộ, và nói thêm, "Tôi muốn họ biết — khi người hâm mộ xem màn trình diễn này — tôi muốn họ biết rằng Britney đã trở lại và tuyệt vời hơn bao giờ hết, cô ấy không hề đi đâu cả. Nhưng cô ấy đã trở lại và tuyệt vời hơn bao giờ hết."[54] Buổi phát sóng đầu tiên của chương trình đặc biệt tại Hoa Kỳ đạt 0.665 triệu người xem và được Nielsen thống kê tỷ suất đạt 0,3/1 trong nhóm nhân khẩu học trưởng thành từ 18–49 tuổi.[55]

Ngày 27 tháng 3, Spears trình diễn cùng danh sách ba bài hát tại Bill Graham Civic Auditorium trước đám đông 5,000 người trong một tập đặc biệt của Good Morning America phát sóng ngày 29 tháng 3.[56] Nữ ca sĩ cũng thể hiện ba bản nhạc và tham gia vào hai tiểu phẩm trên Jimmy Kimmel Live! vào ngày 29 tháng 3,[57] và xuất hiện đặc biệt tại giải Sự lựa chọn của trẻ em năm 2011.[58] Cô cũng dự định xuất hiện nhiều lần trên The Ellen DeGeneres Show vào tuần phát hành album, nhưng sau đó đã bị hủy.[59][60] Vào tháng 4 năm 2011, Spears góp giọng trong bản phối lại "S&M" của Rihanna, sau khi Rihanna hỏi người hâm mộ qua Twitter rằng họ muốn cô hợp tác với ai.[61] Bài hát đạt vị trí số một tại Hoa Kỳ vào giữa tháng 4 năm 2011, đem lại đĩa đơn quán quân thứ năm của Spears trên bảng xếp hạng.[62] Cô cũng tham gia dẫn chương trình khách mời tại buổi hòa nhạc Wango Tango năm 2011 với Ryan Seacrest vào ngày 14 tháng 5 năm 2011.[63] Spears xuất hiện thoáng qua tại giải thưởng âm nhạc Billboard năm 2011, trình diễn bản phối lại "S&M" với Rihanna và một phiên bản ngắn của "Till the World Ends" với Nicki Minaj.[64] "(Drop Dead) Beautiful" được tung ra để tải xuống miễn phí trên trang web của Freeform cho đến khi bộ phim của họ Teen Spirit được công chiếu vào ngày 5 tháng 8 năm 2011.[65] "Trouble for Me" cũng xuất hiện trên trang chính của trang web BMG.[66] Sau đó, Spears xuất hiện tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2011, nơi cô được trao giải thưởng Tiên phong Video Michael Jackson.[67] "Gasoline" được sử dụng trong quảng cáo nước hoa Fantasy Twist của Spears vào tháng 11 năm 2012.[68]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 16 tháng 6 năm 2011, Spears bắt đầu chuyến lưu diễn thứ tám trong sự nghiệp Femme Fatale Tour để quảng bá cho Femme Fatale. Chuyến lưu diễn được công bố vào ngày 29 tháng 3 năm 2011 và bao gồm 45 buổi diễn ở Bắc Mỹ và 26 buổi diễn ở Châu Âu.[69] Trong một buổi phỏng vấn trên chương trình phát thanh của Ryan Seacrest vào ngày 4 tháng 3 năm 2011, Spears tuyên bố rằng cô sẽ lưu diễn tại Hoa Kỳ vào "đầu mùa hè" để quảng bá album.[70] Vào ngày 29 tháng 3 năm 2011, sau màn trình diễn trên Good Morning America, cô thông báo một chuyến lưu diễn tổ chức chung với Enrique Iglesias, bắt đầu vào tháng 6 năm 2011. Vài giờ sau thông báo, Billboard đưa tin rằng Iglesias đã rút lui khỏi chuyến lưu diễn. Ray Wedell của Billboard suy đoán rằng lý do có thể vì Spears được những hãng tin coi là nghệ sĩ chính, trong khi Iglesias chỉ được coi là nghệ sĩ mở màn.[71] Lịch trình cho 26 sáu ngày đầu tiên ở Bắc Mỹ cũng được công bố vào ngày 29 tháng 3 năm 2011.[72] Những nghệ sĩ mở màn được tiết lộ vào ngày 12 tháng 4 năm 2011. Spears chia sẻ: "Đây là chuyến lưu diễn Femme Fatale và tôi rất vui khi có Nicki Minaj, Jessie and the Toy BoysNervo tham gia cùng tôi và đưa mọi người lên sàn nhảy. Không thể chờ đợi ngày bắt đầu với những femme fatale." Vé cho những thị trường được chọn được bán từ ngày 30 tháng 4 tại trang web của TicketmasterLive Nation.[73] Vào tháng 3 năm 2011, người quản lý của Spears là Larry Rudolph nói với MTV News rằng chuyến lưu diễn sẽ có "cảm giác hậu tận thế", đồng thời bình luận rằng "Đối với chúng tôi, "Till the World Ends" đóng vai trò như chủ đề chính." Ông cũng công bố Jamie King là đạo diễn của chuyến lưu diễn.[74] Femme Fatale Tour nhận được những đánh giá ban đầu khá tích cực, một số gọi đây là chuyến lưu diễn hay nhất trong toàn bộ sự nghiệp của cô.[75]

Đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

"Hold It Against Me" được phát hành dưới dạng đĩa đơn mở đường cho album vào ngày 10 tháng 1 năm 2011.[76] Video ca nhạc cho bài hát được công chiếu vào ngày 17 tháng 2 năm 2011 trên MTV sau một chiến dịch tung teaser kéo dài hai tuần, trong đó Spears đóng vai một người ngoài hành tinh tìm thấy danh tiếng trên Trái đất nhưng lại choáng ngợp và suy sụp bởi sự nổi tiếng.[77] "Hold It Against Me" trở thành đĩa đơn quán quân thứ tư của Spears trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ và là đĩa đơn thứ hai liên tiếp của cô ra mắt ở vị trí số một, giúp Spears trở thành nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử bảng xếp hạng có nhiều đĩa đơn quán quân trong tuần đầu.[78] Bài hát cũng đạt vị trí số một tại Bỉ (Wallonia), Canada, Đan Mạch, Phần Lan, New Zealand và Hàn Quốc.[79][80]

"Till the World Ends" được chọn làm đĩa đơn thứ hai, sau khi ra mắt lần đầu trên chương trình phát thanh On Air with Ryan Seacrest của Ryan Seacrest.[81] Bài hát nhận được đánh giá tích cực từ giới phê bình, khen ngợi sự bắt tai và bản chất nghe như thánh ca.[82] Video ca nhạc cho "Till the World Ends" được phát hành vào ngày 6 tháng 4 năm 2011, trên Vevo với nội dung về một bữa tiệc ngầm.[83] Một bản phối lại hợp tác với Minaj và Kesha cũng được phát hành.[84] "Till the World Ends" đạt thành công về mặt thương mại trên toàn cầu, vươn đến vị trí thứ ba tại Hoa Kỳ và đứng đầu bảng xếp hạng ở Ba Lan, Nga, Slovakia và Hàn Quốc, lọt vào top 10 tại Úc, Bỉ (Wallonia), Canada, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Ireland, Israel, Ý, Mexico, New Zealand, Na Uy, Scotland, Thụy Điển và Thụy Sĩ.[79][85] Bài hát cũng trở thành bản hit lớn nhất của Spears trên sóng phát thanh Hoa Kỳ vào thời điểm đó, đạt lượng khán giả tuần cao nhất sự nghiệp của cô với 98 triệu người nghe, trước khi "I Wanna Go" được phát hành.[86]

"I Wanna Go" được công bố là đĩa đơn thứ ba từ Femme Fatale vào ngày 13 tháng 5 năm 2011.[87] Bài hát được phát hành chính thức trên sóng phát thanh Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6 năm 2011.[88] "I Wanna Go" nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình, trong đó họ ca ngợi đoạn hook hấp dẫn của bài hát. Video ca nhạc cho "I Wanna Go" được phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2011 với những cảnh Spears mơ mộng về nhiều kịch bản khác nhau trong một buổi họp báo.[89] Sau khi ra mắt video, bài hát đạt vị trí thứ 29 trên Billboard Hot 100.[90] Sau khi "I Wanna Go" đạt vị trí thứ bảy tại Hoa Kỳ, Femme Fatale trở thành album đầu tiên của Spears sản sinh ba bản hit lọt vào top 10 tại đây.[91]

"Criminal" được phát hành như đĩa đơn thứ tư và cũng là cuối cùng của album sau giải Video âm nhạc của MTV năm 2011 vào ngày 28 tháng 8 năm 2011.[92] Đầu tháng đó, một cuộc thăm dò trên trang Facebook chính thức của Spears được tạo ra để người hâm mộ bình chọn cho đĩa đơn chính thức thứ tư từ Femme Fatale, lựa chọn bao gồm "Criminal", "(Drop Dead) Beautiful" và "Inside Out".[93] "Criminal" sau đó được phát hành vào ngày 30 tháng 9 năm 2011, và là đĩa đơn cuối cùng từ album.[94] Video ca nhạc cho bài hát được quay tại Stoke Newington, một quận của London, Anh.[95] Bản nhạc đạt vị trí thứ 55 tại Hoa Kỳ.[96]

Mặc dù không được phát hành dưới dạng đĩa đơn, bài hát phiên bản cao cấp "Selfish" đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Billboard Dance/Electronic Songs vào tháng 2 năm 2024, sau một chiến dịch của người hâm mộ nhằm vượt qua đĩa đơn cùng tên của Justin Timberlake.[97][98]

Tiếp nhận chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?6.1/10[99]
Metacritic67/100[100]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[101]
Entertainment WeeklyB+[19]
The Guardian[102]
The Independent[45]
MSN Music (Expert Witness)B+[103]
NME7/10[104]
The Observer[40]
Rolling Stone[22]
Slant Magazine[105]
Spin7/10[106]

Femme Fatale đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, album đạt điểm trung bình là 67 trên 100 (đồng nghĩa "đánh giá nhìn chung là tích cực") dựa trên 25 đánh giá từ các nhà phê bình đại chúng.[107] Jody Rosen của Rolling Stone nhận xét rằng đây "có thể là album hay nhất của Britney; và chắc chắn là album kỳ lạ nhất của cô".[22] Biên tập viên của AllMusic, Stephen Thomas Erlewine cho rằng sự hiện diện của Spears trong Femme Fatale bị lu mờ bởi quá trình sản xuất "cao cấp" của album, gọi đĩa hát "về cơ bản là bản làm lại sạch hơn, đẳng cấp hơn của Blackout tối tăm, lòe loẹt [...] một thiên đường của nhà sản xuất".[101] Robert Everett-Green của The Globe and Mail cho album 3.5 trên 4 sao và khen ngợi "chất nhạc điện tử đầy lấp lánh", đồng thời gọi đây là "một trong những thú vui tội lỗi lớn nhất của nhạc pop trong năm".[108] Kitty Empire của The Observer bình luận rằng Spears "tạo nên "một bản thu âm dance dữ dội" như lời cô đã hứa".[40] Ailbhe Malone của NME coi Femme Fatale là "tác phẩm hay nhất" của cô và viết rằng album "tràn đầy sự tự tin, thoải mái của một người biết rằng bản thân đã trở lại đỉnh cao."[104]

Robert Christgau của MSN Music xếp album hạng B+,[103] cho rằng đĩa nhạc "đáng chú ý theo cách này hay cách khác, nhưng cũng có phần tầm thường hoặc hời hợt".[109] Sal Cinquemani của Slant Magazine bình luận rằng việc Spears ít can thiệp vào quá trình sản xuất khiến "thành công của một bài hát hầu như phụ thuộc vào chất lượng sáng tác và sản xuất của những người khác, và mọi bài hát trong Femme Fatale đều thành công hay thất bại dựa trên cơ sở đó".[105] Cây bút Carl Wilson của Los Angeles Times thấy rằng album "tìm ra sự thống nhất về chủ đề, phong cách và âm nhạc bằng cách tưởng tượng ra những viễn cảnh mà việc biến mất vào sự ẩn danh tạo nên sự thoải mái và giải thoát".[110] Tom Gockelen-Kozlowski của The Daily Telegraph cho rằng, "mặc dù với giọng hát yếu và lời nhạc sáo rỗng, [Spears] đã tự đưa mình vào hàng tiên phong của nhạc pop với sự kết hợp tuyệt vời giữa dubstep cực ngầu và nhạc pop ngọt ngào".[111] The A.V. Club của AV Club viết rằng Spears "an cư lạc nghiệp [trong quá trình sản xuất], sẵn sàng làm bất cứ điều gì và tự tin vào những chuyên gia đáng tin cậy và biết cách sử dụng cô ấy tốt nhất".[112]

Trong một bài đánh giá trái chiều, Andy Gill của The Independent chỉ trích "sự cống hiến hết mình cho sàn nhảy" và nhận thấy "chỉ có những biến thể nhịp điệu nhỏ nhất hoặc sự khác biệt trong giai điệu điện tử mới có thể phân biệt được tác phẩm của nhà sản xuất này với nhà sản xuất khác".[45] Jon Caramanica của The New York Times cho rằng "phần lớn âm nhạc trong album có cảm giác ngang phè và thừa thãi, thiếu tính sảng khoái so với những album dance-pop trung bình ở châu Âu cách đây vài năm".[113] Alexis Petridis của The Guardian viết rằng "giọng hát của Spears vẫn vô hồn như mọi khi, và được khuếch đại bởi sự xa hoa của Auto-Tune".[102] Evan Sawdey của PopMatters cảm nhận "thế giới quan của Spears hoàn toàn khép kín" và mô tả Femme Fatale "chỉ là một album ngớ ngẩn cho câu lạc bộ".[114] Rich Juzwiak của The Village Voice viết rằng "tiếng nói của cô không đóng góp nhiều cho cuộc trò chuyện", viết rằng sự ít can thiệp của cô là "có vấn đề với một album mang chủ nghĩa khoái lạc và sự nóng bỏng tạo nên điều đó".[115]

Nhiều nhà phê bình âm nhạc, mặc dù đưa ra những đánh giá tích cực, nhìn nhận rằng Spears gần như không có nhiều đóng góp cho Femme Fatale.[101] Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Ryan Tedder bảo vệ cô, tuyên bố rằng "[Frank] Sinatra không viết bài hát nào, Garth Brooks hầu như không viết bất cứ bài hát nào, tôi nghĩ George Strait có 51 bài hát số một và anh ấy vẫn chưa viết bài hát nào. Rascal Flatts là một trong những nghệ sĩ nhạc đồng quê lớn nhất thế giới và tất cả những bản hit của họ đều do người khác sáng tác."[116] Spears đáp lại những lời chỉ trích tiếp theo về khả năng biểu diễn của cô,[117] "Tôi thực sự không có gì để chứng minh vào lúc này. Tôi chỉ làm vì vui và xem điều gì sẽ xảy ra."[118]

Jocelyn Vena của MTV lưu ý rằng "lần đầu tiên sau một thời gian, cô ấy có vẻ thoải mái khi trở thành một siêu sao nhạc pop như hiện tại."[119] Spin gọi Femme Fatale là album hay thứ 50 của năm 2011[120] và cũng xếp thứ 3 trong danh sách "20 Album nhạc Pop hay nhất năm 2011" của họ.[121] Digital Spy xếp album ở vị trí thứ 11 trong danh sách cuối năm của họ.[122] "Till the World Ends" được Rolling Stone vinh danh là bài hát hay thứ ba của năm 2011[123] và là đĩa đơn hay thứ ba của năm 2011 bởi Billboard, những người mô tả đây là "đĩa đơn trực diện nhất của Britney kể từ 'Toxic'."[124] Sam Lansky của PopCrush coi "Till the World Ends" là bản nhạc pop hay nhất năm 2011[125] Digital Spy cũng coi bài hát là tác phẩm hay nhất năm 2011, gọi đây là "bản nhạc hay nhất của Britney kể từ 'Toxic'" và là "bản hit bị đánh giá thấp nhất của cô."[126]

Thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù nhận được những đánh giá hầu như là tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, Femme Fatale không nhận được bất kỳ đề cử nào tại giải Grammy lần thứ 54.[127][128] John Mitchell của MTV chỉ trích lễ trao giải và cho rằng "Till the World Ends" nên được đề cử cho Thu âm nhạc dance xuất sắc nhất.[129] Robbie Daw của Idolator cũng bảy tỏ việc Spears phải được đề cử: "Cô ấy sở hữu album số 1 với loạt ba bản hit. Vậy chuyện gì đang xảy ra?"[130] Ed Christman của Billboard chỉ ra rằng Femme Fatale đã bị hội đồng bỏ phiếu giải Grammy "bỏ qua".[127] Tuy nhiên, James Montgomery, cũng của MTV, chia sẻ rằng Spears "chưa từng được coi là nghệ sĩ Grammy và chỉ chiến thắng một lần trong toàn bộ sự nghiệp."[131]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Hạng mục Giải thưởng Kết quả Ct.
2011 Album của năm Giải thưởng Lựa chọn của Người hâm mộ PopCrush Đề cử [132]
2011 Album quán quân Billboard 200 được yêu thích Giải thưởng âm nhạc giữa năm của Billboard Đoạt giải [133]
2012 Album được yêu thích Giải Sự lựa chọn của Công chúng Đề cử [134]

Diễn biến thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]
Spears trình diễn "(Drop Dead) Beautiful" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011

Femme Fatale ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 ở Hoa Kỳ, với doanh số tuần đầu tiên là 276,000 bản.[135] Đây là album quán quân thứ sáu của Spears trên bảng xếp hạng và giúp cô đứng thứ tư trong danh sách những nghệ sĩ nữ có nhiều album số một nhất lúc bấy giờ, cùng với Mariah CareyJanet Jackson.[135] Trong tuần thứ hai, đĩa hát tụt một bậc xuống vị trí thứ hai, với doanh số là 75,000 bản, nâng tổng số hai tuần bán ra là 351,000 bản tại Hoa Kỳ.[136] Femme Fatale trải qua năm tuần liên tiếp trong top 10 của Billboard 200.[137] Album được chứng nhận Bạch kim vào tháng 4 năm 2011 bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA),[138] và đã bán được 805,000 bản tại đây tính đến tháng 5 năm 2020.[139] Tại Mexico, album ra mắt ở vị trí số một ngay khi phát hành, trải qua ba tuần trong top 10 trước khi tụt xuống vị trí thứ 13.[140] Hiệp hội các nhà sản xuất bản thu âm và Videograms ở Mexico, A.C. (AMPROFON) trao chứng nhận Vàng cho album và theo Sony Music México, Femme Fatale bán được hơn 40,000 bản tại đây.[141]

Album ra mắt ở vị trí thứ tám trên UK Albums Chart, bán được 31,650 bản trong tuần đầu,[142][143] trở thành album phòng thu đạt thứ hạng thấp nhất của cô tại Vương quốc Anh kể từ In the Zone (2003), đạt vị trí thứ 13 vào tháng 7 năm 2004. Tại Đức, đĩa hát ra mắt ở vị trí thứ mười, trở thành album phòng thu thứ bảy liên tiếp của cô lọt vào top 10 và thứ tám nếu tính cả album tuyển tập Greatest Hits: My Prerogative (2004), vốn đạt vị trí thứ tư.[144][145] Femme Fatale ra mắt ở vị trí thứ tám tại Đan Mạch, bán được 1,009 bản trong tuần đầu tiên.[146] Ngày 4 tháng 4 năm 2011, album ra mắt ở vị trí số một tại Úc, trở thành đĩa hát quán quân đầu tiên của Spears tại đây, đồng thời được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) trong tuần ra mắt với doanh số bán ra cán mốc 35,000 bản.[147]

Trong danh sách tổng kết lượng tiêu thụ giữa năm của Billboard năm 2011, Spears xuất hiện hai lần: Femme Fatale đạt vị trí thứ 12 với 590,000 đơn vị được bán ra và đĩa đơn thứ hai "Till the World Ends" đạt vị trí thứ 18 với 1,989,000 bản được bán ra.[133] Tính đến tháng 2 năm 2014, album bán được 2.4 triệu bản trên toàn cầu.[1]

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
Femme Fatale – Bản tiêu chuẩn
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Till the World Ends"
3:57
2."Hold It Against Me"
  • Dr. Luke
  • Martin
  • Billboard[b]
3:48
3."Inside Out"
  • Dr. Luke
  • Martin
  • Billboard
  • Wright[a]
3:38
4."I Wanna Go"
  • Martin
  • Shellback
3:30
5."How I Roll"
3:36
6."(Drop Dead) Beautiful" (hợp tác với Sabi)
3:36
7."Seal It with a Kiss"
3:26
8."Big Fat Bass" (hợp tác với will.i.am)William Adamswill.i.am4:44
9."Trouble for Me"Smith3:19
10."Trip to Your Heart"
  • Karlsson
  • Jonback
  • Lidehäll
  • Winnberg
  • Morier
  • Sophie Stern
  • Bloodshy
  • Jonback
  • Magnus
  • Wright[a]
3:33
11."Gasoline"
  • Dr. Luke
  • Blanco
  • Wright[a]
3:08
12."Criminal"
  • Martin
  • Shellback
3:45
Tổng thời lượng:44:00
Femme Fatale – Bản cao cấp
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Up n' Down"
  • Shellback
  • Martin
  • Kotecha
  • Martin
  • Shellback
  • Oligee
3:42
14."He About to Lose Me"Jerkins3:48
15."Selfish"3:43
16."Don't Keep Me Waiting"
Jerkins3:21
Tổng thời lượng:58:34
Femme Fatale – Bản cao cấp tại Nhật (bài nhạc bổ sung)
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
17."Scary"Smith3:39
Tổng thời lượng:62:13

Ghi chí

  • ^a nghĩa là sản xuất giọng hát
  • ^b nghĩa là đồng sản xuất

Thành phần thực hiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần thực hiện cho Femme Fatale được trích từ AllMusic.[148]

  • Ammo – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, giọng nền
  • Beatriz Artola – kỹ sư
  • Stacey Barnett – giọng nền
  • Billboard – nhạc cụ, sản xuất, lập trình
  • Benny Blanco – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, giọng nền
  • Sophia Black – giọng nền
  • Christian Karlsson – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, sản xuất giọng hát
  • Heather Bright – giọng nền
  • Tom Coyne – master
  • Ester Dean – giọng nền
  • Megan Dennis – điều phối sản xuất
  • DJ Ammo – lập trình trống, synthesizer
  • Dr. Luke – giám đốc điều hành, nhạc cụ, sản xuất, lập trình, giọng nền
  • Dream Machine – nhạc cụ, sản xuất, lập trình
  • Dylan Dresdow – phối khí
  • Eric Eylands – hỗ trợ kỹ sư
  • Ashton Foster – giọng nền
  • Livvi Franc – giọng nền
  • Fraser T Smith – lập trình trống, đàn phím, sản xuất
  • Clint Gibbs – điều phối sản xuất
  • Aniela Gottwald – hỗ trợ
  • Tatiana Gottwald – hỗ trợ
  • Venza Gottwald – hỗ trợ
  • John Hanes – kỹ sư, phối khí
  • Jeri Heiden – chỉ đạo nghệ thuật
  • Sam Holland – kỹ sư, giọng nền
  • J-MIKE – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, giọng nền
  • Cristyle Johnson – giọng nền
  • Henrik Jonback – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, sản xuất giọng hát
  • Claude Kelly – giọng nền
  • Padraic Kerin – kỹ sư
  • Alexander Kronlund – nhạc cụ, lập trình
  • Adam Leber – A&R
  • Jeremy "J Boogs" Levin – hỗ trợ
  • Magnus – nhạc cụ, sản xuất, lập trình, sản xuất giọng hát
  • Myah Marie – giọng nền
  • Max Martin – kỹ sư, giám đốc điều hành, nhạc cụ, đàn phím, sản xuất, lập trình, giọng nền
  • Bonnie McKee – giọng nền, giọng ca khách mời
  • Nicole Morier – giọng nền
  • Jackie Murphy – giám đốc sáng tạo
  • Rob Murray – hỗ trợ
  • Chris "Tek" O'Ryan – kỹ sư
  • Chau Phan – giọng nền
  • Irene Richter – điều phối sản xuất
  • Tim Roberts – hỗ trợ kỹ sư, phối khí hỗ trợ
  • Patrizia Rogosch – giọng nền
  • Larry Rudolph – A&R
  • Britney Spears – giọng chính, concept, giọng nền
  • Shellback – bass, kỹ sư, guitar, đàn phím, sản xuất
  • Nick Steinhardt – chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế
  • Ryan Supple – sản xuất hình ảnh
  • Peter Thea – A&R
  • Dave Thomas – nhà tạo mẫu
  • will.i.am – lập trình trống, kỹ sư, piano, sản xuất, synthesizer, giọng ca khách mời
  • Emily Wright – kỹ sư, sản xuất giọng hát
  • Randee St. Nicholas – nhiếp ảnh gia
  • Şerban Ghenea – phối khí

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[196] Vàng 35.000^
Brasil (Pro-Música Brasil)[198] 80,000[197]
Canada (Music Canada)[199] 2× Bạch kim 160.000double-dagger
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[200] Vàng 10.000double-dagger
Pháp (SNEP)[201] Vàng 50.000*
Ireland (IRMA)[202] Vàng 7.500^
Nhật Bản (RIAJ)[204] 28,704[203]
México (AMPROFON)[206] Vàng 40,000[205]
Nga (NFPF)[207] Bạch kim 10.000*
Thụy Điển (GLF)[208] Vàng 20.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[209] Vàng 100.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[138] Bạch kim 1.000.000^
Tổng hợp
Toàn cầu 2,400,000[1]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Định dạng Phiên bản Hãng đĩa Ct.
Úc 25 tháng 3, 2011 CD Cao cấp Sony [210][211]
Áo
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
[212][213]
Đan Mạch [214][215]
Phần Lan Tiêu chuẩn [216]
Đức
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
[212][213][217][218]
Hà Lan CD Cao cấp [219]
Na Uy [220]
Thụy Điển
  • CD
  • tải nhạc số
Tiêu chuẩn [221][222]
Thụy Sĩ CD
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
[212][213]
Pháp 28 tháng 3, 2011
  • CD
  • tải nhạc số
[223][224][225][226]
Hồng Kông CD Cao cấp [227]
Ba Lan
  • Eco
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
[228]
Nam Phi Cao cấp [229]
Đài Loan 29 tháng 3, 2011 [230]
Hoa Kỳ
  • CD
  • tải nhạc số
  • Tiêu chuẩn
  • cao cấp
Jive [231][232]
Nhật Bản 6 tháng 4, 2011 Sony Japan [233][234][235]
Vương quốc Anh 17 tháng 6, 2011 CD Cao cấp RCA [236]
Hoa Kỳ 14 tháng 2, 2020 Đĩa than (Độc quyền tại Urban Outfitters) Tiêu chuẩn Legacy [237]
4 tháng 2, 2021 Cassette (Độc quyền tại Urban Outfitters) [238]
31 tháng 3, 2023 Đĩa than [239]
Úc 26 tháng 5, 2023 Đĩa than vân đá trắng/đen Sony [240]
Đức [241]
Ba Lan [242]
Vương quốc Anh [243]
  1. ^ Tạm dịch: "Nếu tôi nói tôi muốn cơ thể của bạn bây giờ, liệu bạn có cưỡng lại không?"
  2. ^ Tạm dịch: "Anh yêu, hãy im lặng và thay đổi tôi đi"
  3. ^ Tạm dịch: "Đến bên tôi lần nữa đi, thật tuyệt vời"
  4. ^ Tạm dịch: "Bạn là người duy nhất khiến tôi phát điên lên"
  5. ^ Tạm dịch: "T-T-Tôi muốn đi-i-i khắp mọi nẻo đường / Mang ra hết sự kỳ thú của tôi đêm nay"
  6. ^ Tạm dịch: 'cơ thể bạn thật nóng bỏng, tôi nghĩ mình phát sốt rồi'
  7. ^ Tạm dịch: 'bạn hẳn phải T.O lắm vì bạn hoàn toàn thôi miên tôi'
  8. ^ Tạm dịch: "Anh ấy là tên lừa đảo / Anh ấy chẳng tốt đẹp gì / Anh ấy là kẻ thua cuộc, chỉ là tên ăn bám"
  9. ^ Tạm dịch: "Anh ấy là kẻ xấu với con tim bại hoại / Và dù tôi biết điều này không thông minh chút nào"
  10. ^ Tạm dịch: "Nhưng mẹ ơi, con đang yêu một tên tù tội"
  11. ^ Tạm dịch: "Mẹ ơi đừng khóc / Con sẽ ổn thôi"
  12. ^ Tạm dịch: "Em chỉ muốn cơ thể bạn, và tôi biết bạn muốn cơ thể tôi"
  13. ^ Tạm dịch: "Thật đáng sợ, yeah / Tôi nghĩ mình cần được thôi miên / Tôi muốn anh đến mức đáng sợ"

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c “Britney Spears song 'Unbroken' surfaces online”. Digital Spy. 17 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Vena, Jocelyn (9 tháng 9 năm 2009). “Britney Spears Releases New Single '3'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
  3. ^ Vena, Jocelyn (2 tháng 8 năm 2010). “Britney Spears To Release New Music Very Soon, Producer Teases”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  4. ^ Vena, Jocelyn (4 tháng 8 năm 2010). “Britney Spears' Manager Clears Up Rumors About New Music”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  5. ^ Svetkey, Benjamin (1 tháng 10 năm 2010). “Britney Spears: On Her Way Back to the Top?”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  6. ^ Dinh, James (1 tháng 11 năm 2010). “Britney Spears Producer Dr. Luke Calls Singer 'An Amazing Vehicle'. MTV Bews. MTV Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  7. ^ a b c d e Knopper, Steve (17 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears On Her New Album, Her Favorite Music and Working With will.i.am”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.
  8. ^ Vena, Jocelyn (2 tháng 12 năm 2010). “Britney Spears To Release Next Album In March”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  9. ^ Vena, Jocelyn (9 tháng 9 năm 2009). “Britney Spears Releases New Single '3'. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
  10. ^ a b Knopper, Steve (2 tháng 2 năm 2011). “Exclusive: Britney Spears' Producer Dr. Luke Reveals Femme Fatale Details”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2011.
  11. ^ Vena, Jocelyn; Warner, Kara (28 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears 'Very Hands-On' For Femme Fatale, Rodney Jerkins Says”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  12. ^ Montgomery, James (28 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Works With Travis Barker For Femme Fatale”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  13. ^ Vena, Jocelyn (28 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears Has Created 'Her Own Genre,' Dr. Luke Says - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  14. ^ a b Montgomery, James (9 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Collabo Is 'A Monster,' will.i.am Says”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  15. ^ Renshaw, David (13 tháng 12 năm 2010). “British Producer Talks About Working On Britney Spears New Album”. Pop Dash. Bản gốc lưu trữ 16 Tháng mười hai năm 2010. Truy cập 25 Tháng hai năm 2012.
  16. ^ Stern, Bradley (tháng 2 năm 2010). “Daily B: William Orbit Out, will.i.am in for Femme Fatale. MuuMuse. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2012.
  17. ^ a b Klapper, Rudy (20 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears – Femme Fatale (staff review)”. Sputnikmusic. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  18. ^ Gundersen, Edna (25 tháng 3 năm 2011). “Brit's 'Femme Fatale': Plenty fun but nothing fresh”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  19. ^ a b Markovitz, Adam (22 tháng 3 năm 2011). “Femme Fatale Review”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  20. ^ Smith, Michael. “Album Review: Britney Spears – Glory”. Renowned for Sound. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2020. Following on from the bland pop of Britney Jean and the generic yet catchy EDM of Femme Fatale [...]
  21. ^ Ganz, Caryn (2 tháng 12 năm 2018). “The 30 Best Britney Spears Songs”. SPIN. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2020.
  22. ^ a b c Rosen, Jody (14 tháng 3 năm 2011). “Femme Fatale by Britney Spears”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  23. ^ a b c d “CD: Britney - Femme Fatale”. Samesame.com.au. Sound Alliance. 14 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2011.
  24. ^ a b Brockington, Ryan (16 tháng 3 năm 2011). “Listen to Britney Spears' Deluxe 'Femme Fatale' tracks”. New York Post. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
  25. ^ Femme Fatale (1 Bonus Track) (CD) – Britney Spears”. HMV Group. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  26. ^ Vena, Jocelyn (3 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears' 'Till The World Ends' Hits Web”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2011.
  27. ^ Collett-White, Mike; Casciato, Paul (4 tháng 3 năm 2011). “Britney's single "leaks", some predict a club hit”. Reuters. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  28. ^ Ritchie, Kevin (24 tháng 3 năm 2011). “Music // Britney Spears – Femme Fatale”. Now. Now Communications. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011.
  29. ^ Benitez-Eves, Tina (4 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Leaks Kesha-Penned Single 'Till The World Ends' and 'Femme Fatale' Tracklist”. AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  30. ^ Copsey, Robert (4 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: 'Till The World Ends'. Digital Spy. Hachette Filipacchi (UK) Ltd. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  31. ^ Powers, Ann (10 tháng 1 năm 2011). “Snap Judgment: "Hold It Against Me" by Britney Spears”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  32. ^ Montgomery, James (10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Inspires Our Inner Pickup Artist”. MTV Newsroom. Viacom Media Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  33. ^ Florino, Rick (10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears 'Hold It Against Me' Single Review — 4.5 out of 5 Stars”. Artistdirect. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  34. ^ Herrera, Monica (8 tháng 3 năm 2011). “New Britney Spears Song Leaks: '(Drop Dead) Beautiful,' 'Inside Out'. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  35. ^ Bruce, Parker (29 tháng 9 năm 2011). “Britney Spears did it again on 'Femme Fatale'. Washington Square News. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  36. ^ Newman, Melinda (13 tháng 3 năm 2011). “Listen: Three new Britney Spears songs from 'Femme Fatale'. HitFix. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  37. ^ Adler, Shawn (19 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Tweets First Snippet Of New Single 'Inside Out'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  38. ^ Glazer, Eliot (8 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Previews ANOTHER New Song: 'Inside Out'. MTV Buzzworthy. Viacom Media Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  39. ^ James, Nicole (22 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Releases Snippet Of New Song 'I Wanna Go'. MTV Buzzworthy. Viacom Media Networks. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2011.
  40. ^ a b c Empire, Kitty (27 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale – review”. The Observer. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2011.
  41. ^ Juzwiak, Rich (30 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Runs on (American) Idol”. The Village Voice. Bản gốc lưu trữ 4 Tháng sáu năm 2011. Truy cập 8 Tháng tư năm 2011.
  42. ^ Copsey, Robert (28 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: 'Femme Fatale'. Digital Spy. Hachette Filipacchi (UK) Ltd. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2011.
  43. ^ a b c Sawdey, Evan (29 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2011.
  44. ^ a b c d “Britney Spears' 'Femme Fatale' Track by Track | Billboard”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  45. ^ a b c d Gill, Andy (25 tháng 3 năm 2011). “Album: Britney Spears, Femme Fatale (JIVE)”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  46. ^ “Listen To Britney Spears' 'I Wanna Go' And 'Big Fat Bass'. Idolator. SpinMedia. 12 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.[liên kết hỏng]
  47. ^ Malone, Ailbhe (17 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears, 'Femme Fatale' - First Listen”. NME. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  48. ^ Thompson, Erin (25 tháng 10 năm 2011). “Nice Hits!: Britney Spears' Down-Tempo 'Criminal' Is Her Own 'Papa Don't Preach'. Seattle Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2011.
  49. ^ “Britney Spears 'Scary' Bonus Track Featured on Japanese 'Femme Fatale' Edition”. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  50. ^ a b Nissim, Mayer (2 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears reveals album title”. Digital Spy. Hearst Magazines UK. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2011.
  51. ^ Naoreen, Nuzhat (9 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' Femme Fatale Twitter Trend Keeps Rolling”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2011.
  52. ^ Meslow, Scott (4 tháng 3 năm 2016). “The sexist, empowering history of the femme fatale”. The Week. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2022.
  53. ^ “Britney Spears: I Am The Femme Fatale”. MTV. 3 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.
  54. ^ Vena, Jocelyn (1 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears' MTV Special Is 'For The Fans,' Manager Says”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  55. ^ Seidman, Robert (5 tháng 4 năm 2011). “Sunday Cable Ratings: 'Ax Men,' 'Chopped,' 'Army Wives,' Kardashians Lead Night; + 'The Killing,' 'The Borgias,' 'Breakout Kings + Much More”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  56. ^ “Britney Spears: 'I Love Music. It's My World,' Pop Star Tells Adoring Fans at San Francisco Concert”. ABC News. American Broadcasting Company. 9 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  57. ^ “Britney Spears Sexes Up Jimmy Kimmel (PHOTOS)”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  58. ^ “Youngsters Decide To Cover Britney Spears In Noodles At The Kids' Choice Awards”. 3 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2011.[liên kết hỏng]
  59. ^ “Enrique Iglesias pulls out of Britney Spears tour, says 'sorry for the confusion'. New York Daily News. 29 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2022.
  60. ^ 'Femme Fatale' Promo Press Release”. Britney.com. Sony Music Entertainment. 17 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ 3 Tháng tư năm 2011. Truy cập 15 Tháng hai năm 2012.
  61. ^ Vena, Jocelyn (11 tháng 4 năm 2011). “Rihanna Says Britney Spears' 'S&M' Remix 'Had To Be Major'. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2011.
  62. ^ Trust, Gary (20 tháng 4 năm 2011). “Rihanna's 'S&M' Reigns on Hot 100, Lady Gaga's 'Judas' Debuts”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2011.
  63. ^ Elias, Matt (15 tháng 5 năm 2011). “Britney Spears Hosts As Ke$ha, Jennifer Lopez, More Bring Wango Tango To L.A. - Music, Celebrity, Artist News”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  64. ^ Herrera, Monica (22 tháng 5 năm 2011). “Britney Spears Joins Rihanna, Nicki Minaj Performances at 2011 Billboard Music Awards”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  65. ^ “4 Days until the Teen Spirit Premiere: FREE Britney Spears Download!”. ABC Family. 3 tháng 8 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  66. ^ “BMG - Comprehensive Management of Music Rights for Songwriters and Recording Artists”. Sony BMG. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2011.
  67. ^ “VMA 2011 - MTV Video Music Awards - MTV”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2016.
  68. ^ Video trên YouTube
  69. ^ “Britney Spears”. Britney Spears. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  70. ^ Turner, Sadao (4 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Talks New Album, Toned Boyfriend & Upcoming Tour [Audio]”. RyanSeacrest.com. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  71. ^ Kaufman, Gil (30 tháng 3 năm 2011). “Enrique Iglesias Pulls Out Of Britney Spears Tour”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  72. ^ Wedell, Ray (29 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears To Tour With Enrique Iglesias This Summer”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011.
  73. ^ Live Nation (12 tháng 4 năm 2011). “Pop Superstar Britney Spears Announces Special Guest Nicki Minaj to Join the Highly Anticipated All Female Femme Fatale Tour” (Thông cáo báo chí). PR Newswire. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  74. ^ Kaufman, Gil (31 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Tour Will Have Post-Apocalyptic Vibe, Manager Says”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  75. ^ “Britney Spears Earns Raves for Femme Fatale Tour Opener”. Us Weekly. 17 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  76. ^ “Hear Britney Spears' New Single, 'Hold It Against Me'. Us Weekly. 10 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  77. ^ Vena, Jocelyn (14 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Video Premiere To Be Followed By Live MTV.com Chat!”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  78. ^ Trust, Gary (19 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Debuts Atop Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  79. ^ a b “Britney Spears Album & Song Chart History”. Billboard Canadian Hot 100 for Britney Spears. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  80. ^ “Charts.org.nz – Britney Spears – Hold It Against Me”. Top 40 Singles. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  81. ^ Lipshutz, Jason (4 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Plays Finished 'Till The World Ends,' Confirms Summer Tour”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  82. ^ “Britney's single 'leaks', some predict a club hit”. Reuters. 4 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  83. ^ Perpetua, Matthew (6 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears Goes Clubbing on Judgment Day in 'Til the World Ends'. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  84. ^ Dinh, James (22 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears, Nicki Minaj And Ke$ha 'Till The World Ends' Remix Leaks”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2011.
  85. ^ “Lescharts.com – Britney Spears – Till the World Ends”. Les classement single. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  86. ^ Trust, Gary (11 tháng 5 năm 2011). “Adele's 'Rolling in the Deep' Tops Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2011.
  87. ^ Newman, Melinda (13 tháng 5 năm 2011). “Listen: 'I Wanna Go' Set as Britney Spears Next Single and Music Video”. HitFix. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  88. ^ “Available for Airplay”. FMQB. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  89. ^ Vena, Jocelyn (22 tháng 6 năm 2011). “Britney Spears Fights Cyborg Paparazzi In 'I Wanna Go' Video”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  90. ^ Trust, Gary (29 tháng 6 năm 2011). “Pitbull's 'Give Me Everything' Powers to No. 1 on Hot 100”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  91. ^ Trust, Gary (3 tháng 8 năm 2011). “Britney Spears Bounds Into Hot 100's Top 10, LMFAO Still No. 1”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2011.
  92. ^ “Britney Spears' Next Single Is 'Criminal'!”. MTV. 29 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  93. ^ Vena, Jocelyn (9 tháng 8 năm 2011). “Will '(Drop Dead) Beautiful' Be Britney Spears' Next Single?”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  94. ^ “Criminal (Radio Mix) par Britney Spears”. 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  95. ^ Vena, Jocelyn; White Wolf, Vanessa (19 tháng 10 năm 2011). “Britney Spears Boyfriend's 'Criminal' Role 'A Challenge'. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2011.
  96. ^ “Britney Spears Album & Song Chart History”. Billboard Hot 100 for Britney Spears. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  97. ^ “Britney Spears Dance/Electronic Songs chart history”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  98. ^ McIntyre, Hugh. “Britney Spears Scores A New No. 1 Hit On A Billboard Chart”. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2024.
  99. ^ “Femme Fatale by Britney Spears reviews”. Any Decent Music. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2016.
  100. ^ “Femme Fatale by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2016.
  101. ^ a b c Erlewine, Stephen Thomas (28 tháng 3 năm 2011). “Femme Fatale - Britney Spears”. AllMusic. Rovi Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2011.
  102. ^ a b Petridis, Alexis (25 tháng 3 năm 2011). “Femme Fatale review”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  103. ^ a b Christgau, Robert (15 tháng 4 năm 2011). “Rainbow Arabia/Britney Spears”. MSN Music. Microsoft. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  104. ^ a b Malone, Ailbhe (4 tháng 4 năm 2011). “Album Review: Britney Spears - Femme Fatale (JIVE)”. NME. London. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2012.
  105. ^ a b Cinquemani, Sal (11 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale”. Slant Magazine. Keith Uhlich. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
  106. ^ Ganz, Caryn (29 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears' Femme Fatale Review”. Spin. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  107. ^ “Critic Reviews for Femme Fatale by Britney Spears”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  108. ^ Everett-Green, Robert (25 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears' 'Femme Fatale' officially streaming online: Read our review here”. The Globe and Mail. Toronto. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  109. ^ Christgau, Robert (15 tháng 4 năm 2011). “CG 90s: Key to Icons”. Robert Christgau. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2011.
  110. ^ Wilson, Carl (28 tháng 3 năm 2011). “Album review: 'Femme Fatale' by Britney Spears”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  111. ^ Gockelen-Kozlowski, Tom (25 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale, CD review - Telegraph”. The Daily Telegraph. London. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2018.
  112. ^ Koski, Genevieve (29 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale”. The A.V. Club. The Onion, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2011.
  113. ^ Caramanica, Jon (29 tháng 3 năm 2011). “New Music From Britney Spears and If By Yes”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  114. ^ Sawdey, Evan (29 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears: Femme Fatale”. PopMatters. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2011.
  115. ^ Juzwiak, Rich (30 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears Runs on (American) Idol”. The Village Voice. Bản gốc lưu trữ 4 Tháng sáu năm 2011. Truy cập 30 Tháng Ba năm 2011.
  116. ^ Halperin, Shirley (6 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears Defended for Not Writing Own Music”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2011.
  117. ^ Yates, Missy (1 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears on Good Morning America: Video”. Long Island Pres. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng tư năm 2011. Truy cập 15 Tháng hai năm 2012.
  118. ^ “Britney Spears: I Have Nothing to Prove”. Showbiz Spy. 24 tháng 9 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  119. ^ Vena, Jocelyn (21 tháng 12 năm 2011). “Britney Spears' Big 2011: From A Smash Album To A Ring On Her Finger”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  120. ^ “SPIN's 20 Best Pop Albums of 2011”. Spin. 22 tháng 12 năm 2011. tr. 4. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
  121. ^ “SPIN's 20 Best Pop Albums of 2011”. Spin. 22 tháng 12 năm 2011. tr. 4. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
  122. ^ “Digital Spy's 25 Best Albums of 2011”. Digital Spy. Hachette Filipacchi Médias. 21 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  123. ^ “50 Best Singles of 2011: Britney Spears, 'Till The World Ends'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2011.
  124. ^ “Critics' Picks: 20 Best Songs of 2011”. Billboard. 13 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2011.
  125. ^ Lanksy, Sam (23 tháng 11 năm 2011). “TOP 10 POP SONGS OF 2011”. PopCrush. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2011.
  126. ^ “Digital Spy's 25 best songs of 2011”. Digital Spy. 24 tháng 12 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2011.
  127. ^ a b Christman, Ed (2 tháng 12 năm 2011). “Adele? Bruno Mars? Skrillex? Retailers Project 2012 Grammy Sales Bumps”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  128. ^ Recording Academy. “54th Annual GRAMMY Awards”. grammy.com. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2024.
  129. ^ Mitchell, John (11 tháng 1 năm 2012). “Grammy Snubs: Beyonce And Britney Were Robbed, Kanye West, Lady Gaga And Taylor Swift Should Have Gotten Even More Love”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  130. ^ Daw, Robbie (1 tháng 12 năm 2011). “8 Grammy Nomination Snubs: From Britney & Beyonce To Taylor & Dr. Luke”. Idolator. Buzz Media. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.[liên kết hỏng]
  131. ^ Montgomery, James (1 tháng 12 năm 2011). “Grammy Nominations: The Biggest Shocks And Snubs”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  132. ^ “2011 PopCrush Music Awards – Vote Now!”. 3 tháng 12 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2012.
  133. ^ a b Lipshutz, Jason (7 tháng 7 năm 2011). “Britney Spears, Lady Gaga Rule Billboard.com's 2011 Mid-Year Music Awards”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2020.
  134. ^ "Và những người chiến thắng là: "“Peoples Choice Nominees”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  135. ^ a b Caulfield, Keith (6 tháng 4 năm 2011). “Britney Spears Snares Sixth No. 1 on Billboard 200 with 'Femme Fatale'. Billboard. Los Angeles. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011.
  136. ^ Khaufman, Gil (13 tháng 4 năm 2011). “Adele Back at No. 1 On Billboard Chart, Pushing Britney Spears to No. 2”. MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2011.
  137. ^ Mansfield, Brian (4 tháng 5 năm 2011). “Adele remains at No. 1; 'Idol' boosts Crystal Bowersox, Carole King”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2011.
  138. ^ a b “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Britney Spears – Femme Fatale” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  139. ^ Trust, Gary (15 tháng 5 năm 2020). “Britney Spears' Career Sales & Streams, In Honor of 20 Years of 'Oops!...I Did It Again': Ask Billboard Mailbag”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2020.
  140. ^ “mexicancharts.com - Britney Spears - Femme fatale”. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2011.
  141. ^ Agencia (8 tháng 8 năm 2011). “Britney finalizará su gira en Puerto Rico” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Tabaru. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  142. ^ “JLO's On The Floor is top of the pile while Adele's 21 scores biggest week yet on Mothers' Day”. The Official Charts Company. 3 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011.
  143. ^ Jones, Alan (3 tháng 4 năm 2011). “Adele claims album record but loses to Lopez in singles”. Music Week. United Business Media. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011.
  144. ^ “charts.de”. charts.de. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  145. ^ “charts.de”. charts.de. 25 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  146. ^ Treo, Thomas (8 tháng 4 năm 2011). “Britney får bank af børn”. Ekstra Bladet (bằng tiếng Đan Mạch). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  147. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  148. ^ Femme Fatale – Credits”. AllMusic. Rovi Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2011.
  149. ^ "Australiancharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  150. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  151. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  152. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  153. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập June 5, 2015.
  154. ^ Hrvatska diskografska udruga (HDU). “Inozemni program (Top Foreign Albums)” (bằng tiếng Croatia). Top of the Shops. tr. 1. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2024.
  155. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201113 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác. Truy cập June 5, 2015.
  156. ^ "Danishcharts.dk – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  157. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  158. ^ "Britney Spears: Femme Fatale" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập June 5, 2015.
  159. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  160. ^ “Longplay-Chartverfolgung at Musicline”. Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
  161. ^ “Britney Spears – Femme Fatale”. Greekcharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2022.
  162. ^ "Album Top 40 slágerlista – 2011. 13. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ. Truy cập June 5, 2015.
  163. ^ "GFK Chart-Track Albums: Week 13, 2011". Chart-Track. IRMA. Truy cập June 5, 2015.
  164. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  165. ^ 18, 2011/ "Oricon Top 50 Albums: April 18, 2011" (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập June 5, 2015.
  166. ^ “Britney Spears – Femme Fatale”. Mexicancharts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
  167. ^ "Charts.nz – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  168. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  169. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập June 5, 2015.
  170. ^ "Portuguesecharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  171. ^ Россия Топ 25. Альбомы. (bằng tiếng Nga). Lenta.Ru. 9 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  172. ^ 9, 2011/40/ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập June 5, 2015.
  173. ^ “Circle Chart”. circlechart.kr. 4 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.
  174. ^ "South Korea Gaon International Album Chart". Trên trang này, chọn "{{{date}}}", sau đó "국외", để có được biểu đồ tương ứng. Gaon Chart Truy cập October 13, 2017.
  175. ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  176. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  177. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Femme Fatale" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập June 5, 2015.
  178. ^ "Britney Spears | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập June 5, 2015.
  179. ^ "Britney Spears Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập June 5, 2015.
  180. ^ “|| RecordLand ||”. www.recordland.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2023.
  181. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Albums 2011”. Australian Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2015.
  182. ^ “Jaaroverzichten 2011”. Ultratop (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
  183. ^ “Rapports annuels 2011”. Ultratop (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
  184. ^ “Canadian Albums: 2011 Year-End Charts”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  185. ^ “Album-Top 100”. Tracklisten. IFPI Denmark. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  186. ^ “The Top of the Year: Top Albums Merged”. Syndicat National de l'Édition Phonographique. 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  187. ^ “Classement Téléchargments Albums – année 2011” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2013.
  188. ^ “Összesített album- és válogatáslemez-lista – eladási darabszám alapján – 2011”. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  189. ^ “Los Mas Vendidos 2011” (PDF). Top 100 Mexico. Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  190. ^ “Los Mas Vendidos 2011 (Ingles)” (PDF). Top 100 Mexico. Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2012.
  191. ^ “Шансон годаЧто слушали россияне в 2011 году” [Song of the year: what Russians listened to in 2011]. Lenta.ru (bằng tiếng Nga). Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2021.
  192. ^ “Årslista Album – År 2011” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Grammofonleverantörernas förening. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012.
  193. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2011”. Schweizer Hitparade. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  194. ^ “Year End Chart 2011” (PDF). Official Charts Company. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2020.
  195. ^ Billboard 200 Albums: Year End 2011”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  196. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  197. ^ Torres, Leonardo (29 tháng 11 năm 2013). "Britney Jean" sairá com tiragem inicial de 25 mil cópias no Brasil”. POPline (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2023.
  198. ^ “Chứng nhận Brasil” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Pro-Música Brasil.
  199. ^ “Chứng nhận album Canada – Britney Spears – Femme Fatale” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
  200. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Britney Spears – Femme Fatale” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  201. ^ “Chứng nhận album Pháp – Britney Spears – Femme Fatale” (bằng tiếng Pháp). InfoDisc. Select BRITNEY SPEARS and click OK. 
  202. ^ “The Irish Charts - 2011 Certification Awards - Platinum” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Âm nhạc Thu âm Ireland. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  203. ^ “2011.5.2付 アルバムTOP20” [02/05/2011 Top 20 Albums]. Oricon (bằng tiếng Nhật). Yahoo! GeoCities. 2 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2021.
  204. ^ “Chứng nhận album Nhật Bản” (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản.
  205. ^ EFE (8 tháng 8 năm 2011). “Britney finalizará su gira en Puerto Rico” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Esmas.com. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2011.
  206. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Femme Fatale ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  207. ^ “Российская индустрия звукозаписи 2011” (PDF) (bằng tiếng Nga). Lenta. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  208. ^ “Britney Spears - Femme Fatale”. Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2020.
  209. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Britney Spears – Femme Fatale” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2016.
  210. ^ “Femme Fatale: Deluxe Edition by Britney Spears”. Sanity. 25 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2017.
  211. ^ “Chaos.com.au: Femme Fatale: Britney Spears: Music”. Chaos.com. Bản gốc lưu trữ 12 Tháng hai năm 2015. Truy cập 9 Tháng hai năm 2011.
  212. ^ a b c “Amazon.de: Femme Fatale: Britney Spears: Music”. Amazon Đức. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2011.
  213. ^ a b c “Amazon.de: Femme Fatale (Deluxe Edition): Britney Spears: Music”. Amazon Đức. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2011.
  214. ^ Femme Fatale – Spears Britney – Musik”. CDON Group. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2011.
  215. ^ Femme Fatale – Deluxe Edition (with fragrance insert) – Spears Britney – Musik”. CDON Group. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2011.
  216. ^ Femme Fatale – Musiikki – CDON.COM”. CDON Group. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  217. ^ “Femme Fatale (Deluxe Version) von Britney Spears auf Apple Music”. iTunes Store (DE). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  218. ^ “Femme Fatale von Britney Spears auf Apple Music”. iTunes Store (DE). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  219. ^ “FreeRecordShop.nl: Femme Fatale – Britney Spears – CD”. Free Record Shop. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2011.
  220. ^ “730.no.: Femme Fatale: Britney Spears: Music”. 730.no. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2011.
  221. ^ “Femme Fatale – Musik – CDON.COM”. CDON Group. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  222. ^ “Femme Fatale av Britney Spears på iTunes”. iTunes Store (SE). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  223. ^ “Femme Fatale de Britney Spears sur iTunes”. iTunes Store (FR). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  224. ^ “Femme Fatale (Deluxe Version) par Britney Spears sur Apple Music”. iTunes Store (FR). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  225. ^ “Femme fatale – Britney Spears – CD album – Achat & prix”. Fnac. 28 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  226. ^ “Femme fatale – Edition limitée digipack – Britney Spears – CD album – Achat & prix”. Fnac. 28 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  227. ^ Femme Fatale – Britney Spears – Sony Music” (bằng tiếng Trung). Sony Music Hong Kong. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  228. ^ Femme Fatale (Eco Style) (CD)”. Empik. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2011.
  229. ^ “Britney Spears – Femme Fatale (Deluxe Edition CD)”. Take2.co.za. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2011.
  230. ^ “Britney Spears: Femme Fatale (Deluxe Edition)”. Sony Music Taiwan. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2011.
  231. ^ “Amazon.com: Femme Fatale: Britney Spears: Music”. Amazon. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2011.
  232. ^ “Pre-order 'Femme Fatale' Premium Fan Edition”. Jive Records. 4 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
  233. ^ “Sony Music Online Japan : ブリトニー・スピアーズ : ファム・ファタール”. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2011.
  234. ^ “ブリトニー・スピアーズ「Femme Fatale」を iTunes”. iTunes Store (JP). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  235. ^ “ブリトニー・スピアーズ「Femme Fatale (Deluxe Version)」を iTunes”. iTunes Store (JP). Apple Inc. 25 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  236. ^ “Britney Spears: Femme Fatale (Deluxe Edition) (Jewel Case) (CD)”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  237. ^ Britney Spears - Femme Fatale (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023, truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023
  238. ^ “Femme Fatale Cassette”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
  239. ^ “Britney Spears - Femme Fatale [LP] | RECORD STORE DAY”. recordstoreday.com. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2023.
  240. ^ “Femme Fatale (Light Gray Marble Vinyl)”. JB Hi-Fi (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  241. ^ “Britney Spears: Femme Fatale (White/Black Marbled Vinyl) (LP) – jpc”. www.jpc.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  242. ^ “Femme Fatale”. www.empik.com (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.
  243. ^ “Britney Spears Femme Fatale Vinyl LP Light Grey Marble Colour 26/05/23”. Assai Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2023.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]