Wojciech Szczęsny
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Wojciech Szczęsny | ||
Ngày sinh | 18 tháng 4, 1990 [2] | ||
Nơi sinh | Warszawa, Ba Lan | ||
Chiều cao | 1,95 m (6 ft 5 in)[3] | ||
Vị trí | Thủ môn | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Barcelona | ||
Số áo | 25 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
2004–2005 | Agrykola Warszawa | ||
2005–2006 | Legia Warszawa | ||
2006–2009 | Arsenal | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2009–2017 | Arsenal | 132 | (0) |
2009–2010 | → Brentford (mượn) | 28 | (0) |
2015–2017 | → Roma (mượn) | 72 | (0) |
2017–2024 | Juventus | 200 | (0) |
2024– | Barcelona | 0 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia‡ | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2007–2010 | U-20 Ba Lan | 4 | (0) |
2009–2012 | U-21 Ba Lan | 7 | (0) |
2009– | Ba Lan | 84 | (0) |
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 20 tháng 5 năm 2024 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 21 tháng 6 năm 2024 |
Wojciech Tomasz Szczęsny (phát âm tiếng Ba Lan: [ˈvɔjt͡ɕɛx ˈtɔmaʂ ˈʂt͡ʂɛ̃snɨ]; sinh ngày 18 tháng 4 năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ba Lan hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ La Liga Barcelona và đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan.
Thời thơ ấu
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi đến với bóng đá, Szczęsny từng học khiêu vũ, và sau đó anh cũng thể hiện mình rất xuất sắc ở môn ném lao.[4] Cha của anh, Maciej, là cựu thủ môn của đội tuyển Ba Lan, và anh trai anh, Jan, hiện tại thuộc biên chế của Gwardia Warszawa ở giải hạng bảy của hệ thống giải vô địch quốc gia Ba Lan, đội bóng mà cha của họ cũng đã từng chơi một lần ở đó.
Sự nghiệp câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Szczęsny được đào tạo tại Agrykola Warsaw khi anh còn là một cầu thủ trẻ; chẳng bao lâu sau, huấn luyện viên thủ môn của Legia Warsaw, Krzysztof Dowhań, đã rất ấn tượng với thủ môn trẻ này, ông đã cho phép anh tham gia vào trại huấn luyện với đội I của Legia khi anh 15 tuổi, và sau đó anh đã được gia nhập đội bóng.[5][6]
Arsenal
[sửa | sửa mã nguồn]Năm 2006, Szczęsny gia nhập hệ thống đào tạo trẻ của Arsenal, và chuyển lên đội dự bị ở mùa giải 2008–09. Vào tháng 11 năm 2008, anh đã bị mất thăng bằng khi đang nâng tạ và kết quả là cả hai cánh tay của anh đều bị gãy, khiến anh phải bỏ lỡ tập luyện trong năm tháng.[4] Szczesny xuất hiện trên băng ghế dự bị lần đầu tiên cho đội I trong trận đấu ở Premier League đối đầu với Stoke City vào ngày 24 tháng 5 năm 2009.
Bắt đầu mùa giải 2009–10 anh có tên trong đội I và nhận chiếc áo số 53. Anh có tên trên băng ghế dự bị trong trận đấu ở Champions League đối đầu với Standard Liège vào ngày 16 tháng 9 năm 2009. Ngày 22 tháng 9 năm 2009, Szczęsny có trận đấu ra mắt cho đội I ở League Cup, giữ sạch lưới trước West Bromwich Albion.[7] Vào tháng 12 năm 2009, Arsène Wenger tiết lộ rằng ông và các thành viên ban huấn luyện đặt hi vọng rất cao vào Szczęsny, ông nói, "Chúng tôi tin rằng Wojciech sẽ là thủ môn rất tuyệt vời trong tương lai."[8][9] Vào tháng 1 năm 2010, Wenger phát biểu: "Tôi thật sự tin tưởng rằng một ngày nào đó anh ấy sẽ là số một của Arsenal. Anh ấy sở hữu tất cả những phẩm chất mà bạn muốn từ một thủ môn."[10][11]
Brentford (mượn)
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 20 tháng 11 năm 2009, Szczęsny gia nhập đội bóng đang chơi ở League One, Brentford, với bản hợp đồng cho mượn trong thời hạn một tháng. Anh đã cản phá được một quả penalty ở hiệp hai trong trận đấu thứ hai của anh, để thua với tỷ số 1–0 trước Wycombe Wanderers. Szczęsny hoàn thành trận đấu thứ năm của anh cho Brentford vào ngày 12 tháng 12 năm 2009, ở trận đấu đó anh đã có một số pha cứu thua tuyệt vời trước Leeds United và nhận được danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu.[12] Ngày 22 tháng 12, Arsenal đồng ý kéo dài thêm thời hạn cho mượn đến ngày 17 tháng 1 năm 2010,[13] và sau đó là đến ngày 31 tháng 1. Cuối cùng, thời hạn đã được kéo dài đến ngày 31 tháng 5.[14] Vào tháng 4, huấn luyện viên của Brentford, Andy Scott, nói rằng: "Những màn trình diễn của anh ấy cho thấy rằng anh ấy xứng đáng được thi đấu ở Championship, thậm chí là Premier League. Nó đã đến cái giai đoạn mà khi anh ấy để lọt một bàn thua chúng tôi lại tự hỏi là tại sao anh ấy lại không cản phá nó."[15] Một năm sau, sau khi Scott bị sa thải khỏi vị trí huấn luyện viên Brentford, Szczęsny chỉ trích câu lạc bộ về việc sa thải Scott trên Twitter, ""Thật là một trò đùa! Andy Scott bị sa thải?! Ông ấy là một huấn luyện viên tuyệt vời và Brentford sẽ phải trả giá. Họ thì đang tranh đấu ở League Two khi AS đến tiếp quản! Ông ấy là lý do duy nhất để giải thích cho việc tại sao Brentford được chơi ở League One."[16]
Mùa giải 2010-11
[sửa | sửa mã nguồn]Vào ngày 27 tháng 10 năm 2010, Szczęsny có lần ra sân thứ hai cho Arsenal ở League Cup, giữ sạch lưới trước Newcastle United tại St James' Park và ngăn chặn rất nhiều nỗ lực ghi bàn của các cầu thủ Newcastle.[17] Anh gia hạn hợp đồng vào ngày 11 tháng 11 năm 2010, nhờ huấn luyện viên thủ môn Josh Phelan và cha của anh Maciej Szczęsny (người từng là thủ môn của đội tuyển Ba Lan) đã giúp đỡ anh có được sự tiến bộ trong mùa giải mang tính đột phá của anh.[18][19] Szczęsny có lần ra mắt ở Premier League trong trận thua 1-0 trước Manchester United tại Old Trafford vào ngày 13 tháng 12 năm 2010, bắt chính thay cho Łukasz Fabiański và Manuel Almunia, cả hai đều bỏ lỡ trận đấu vì chấn thương.[20] Ngày 8 tháng 1 năm 2011, anh bắt chính ở vòng ba FA Cup trước Leeds United. Cuối tuần tiếp theo, Szczęsny giữ sạch lưới lần đầu tiên ở giải vô địch trong chiến thắng 3–0 trước West Ham United tại Boleyn Ground.
Chứng kiến phong độ của Szczęsny qua những lần liên tiếp bắt chính tại ở Premier League, Wenger xác nhận rằng Szczęsny là sự lựa chọn hàng đầu trong khung gỗ, ông nói "anh ấy không làm gì để tôi phải loại anh ấy ra."[21] Vào ngày 16 tháng 2, Szczęsny là vai diễn chính trong trận đầu tiên của anh ở Champions League đối đầu với Barcelona tại Emirates. Trận đấu kết thúc với tỷ số 2–1 cho Arsenal, Szczęsny đã có một số pha cứu thua xuất sắc.[22] Ngày 27 tháng 2, Szczęsny đã để cho Birmingham City giành chiến thắng trước Arsenal ở trận chung kết League Cup vào những phút cuối cùng của trận đấu. Ở phút 89, một cú đánh đầu là nguyên nhân gây ra sự bối rối giữa Szczęsny và hậu vệ Laurent Koscielny trong nỗ lực cản phá bóng, quả bóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát và đến ngay vị trí của cầu thủ Birmingham, Obafemi Martins, cầu thủ này đã đưa bóng vào lưới từ vị trí gần chấm đá penalty.
Mùa giải 2011-12
[sửa | sửa mã nguồn]Szczęsny chơi một hiệp trong mỗi trận giao hữu chuẩn bị trước mùa giải của Arsenal ở chuyến du đấu đến Malaysia và Trung Quốc. Szczęsny được nhận chiếc áo số 13 thay cho số 53, số áo cũ của Alexander Hleb, sau đó là của Jens Lehmann trong lần quay trở lại câu lạc bộ. Anh đã chơi ở trận đấu đầu tiên của Premier League mùa giải 2011-12, hòa 0-0 với Newcastle United, và điều này đã cho thấy rằng anh chính là sự lựa chọn hàng đầu của Arsenal ở vị trí thủ môn. Vào ngày 24 tháng 8 Szczęsny đã cản phá được quả penalty mang tính chất sống còn ở phút thứ 59 của Antonio Di Natale tại trận lượt về vòng loại UEFA Champions League. Arsenal hòa 1–1 (tổng tỷ số sau hai lượt là 2-1) trước Udinese Calcio và pha cứu thua của Szczęsny đã đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo một chiếc vé cho Arsenal ở vòng bảng Champions League lần thứ 14 liên tiếp. Arsenal tiếp đó đã giành chiến thắng 2–1 (tổng tỷ số sau hai lượt là 3-1) với những bàn thắng của Robin van Persie và Theo Walcott. Ngày 28 tháng 8, anh đã thi đấu trong trận thua 8-2 trước Manchester United tại Old Trafford, đó là thất bại nặng nề nhất của Arsenal ở Premier League và là lần đầu tiên họ bị thủng lưới đến 8 bàn trong hơn 115 năm. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2012, Szczęsny đã được tận hưởng chiến thắng trong lần đầu tiên được chơi ở trận derby Bắc Luân Đôn, khi mà Arsenal từ thế bị dẫn 0–2 đã lội ngược dòng giành chiến thắng với tỷ số 5–2 trên sân nhà trước Tottenham Hotspur.[23] Ngày 3 tháng 3 năm 2012, Szczęsny đã có một số pha cứu thua quan trọng và cản phá được một quả phạt đền ở đầu trận để giúp Arsenal giành chiến thắng trước Liverpool tại Anfield trong trận đấu mà đội trưởng Robin van Persie đã thừa nhận rằng họ đã may mắn khi giành được chiến thắng.
Mùa giải 2012-13
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Manuel Almunia được giải phóng hợp đồng, Szczęsny được tiếp quản chiếc áo số 1.[24] Sau hai tháng phải ngồi ngoài vì chấn thương, Szczęsny đã trở lại trong chiến thắng 5–2 trước Tottenham Hotspur.[25]
Szczęsny được bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu bởi người hâm mộ trên trang web chính thức của câu lạc bộ sau một chuỗi những pha cản phá mang tính quyết định ở hiệp hai trong trận thắng 1–0 trên sân của Sunderland vào ngày 9 tháng 2.[26]
Ngày 13 tháng 3 năm 2013, Szczęsny bị loại khỏi đội hình Arsenal trong cuộc đối đầu với Bayern München ở Champions League.[27] Trong trận đấu tiếp theo của Arsenal ở Premier League trước Swansea City, Szczęsny trở lại đội hình Arsenal nhưng chỉ có tên trên băng ghế dự bị, với Łukasz Fabiański được chọn bắt chính bởi Arsène Wenger.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 2013, Szczęsny trở lại trong trận đấu ở Premier League tiếp đón Everton trên sân nhà do Fabiański bị dính một chấn thương ở xương sườn.[28] Trong hai trận đấu đầu tiên ở lần trở lại này trong khung thành của Arsenal, anh đã liên tiếp giữ sạch lưới lần lượt trước Everton và Fulham.
Mùa giải 2013-14
[sửa | sửa mã nguồn]Szczęsny đã có một thử thách ở ngay vòng đấu mở màn của Premier League, trận đấu mà Arrsenal đã thất bại với tỷ số 1-3 trước Aston Villa. Trong trận đấu, anh đã cản phá thành công một quả penalty khi anh đã bắt bài được Christian Benteke. Mặc dù vậy Benteke vẫn ghi bàn ở tình huống dứt điểm bồi sau đó. Mặc dù thất vọng, nhưng Szczęsny đã phản ứng một cách tích cực bằng thành tích 3 trận giữ sạch lưới trong 4 trận đấu tiếp theo. Anh cũng đã có hai pha cứu thua quyết định để đảm bảo chiến thắng 1–0 của Arsenal trên sân của Crystal Palace trong tháng 10,[29] cũng như giữ sạch lưới hai trận liên tiếp ở những chiến thắng quan trọng trước Liverpool[30] và Borussia Dortmund ở Champions League.[31] Trong trận đối đầu với Manchester United vào tháng 11 năm 2013, Szczęsny đã phải mất khá nhiều thời gian cho một sự chăm sóc y tế sau pha va chạm đầu đối đầu với Phil Jones, nhưng anh vẫn chơi đến hết trận sau khi huấn luyện viên của Arsenal, Arsène Wenger, đã cho phép anh tiếp tục thi đấu. Wenger cho hay rằng ông sẽ thay thế Szczęsny nếu như nhận được lời khuyên từ đội ngũ bác sĩ, ông nói thêm, "Không, không có ai nói với tôi bất cứ điều gì về cậu ta" khi được hỏi rằng đội ngũ y tế có nói với ông về tình trạng của Szczęsny hay không.[32] Huấn luyện viên của Tottenham Hotspur, André Villas-Boas, đã bị chỉ trích nặng nề vào tuần trước đó khi vẫn để cho thủ môn Hugo Lloris tiếp tục thi đấu khi anh này đã mắc phải một chấn thương trong cuộc đối đầu với Everton.[33]
Vào ngày 16 tháng 11 năm 2013, Arsenal thông báo rằng Szczęsny đã gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ.[34] Phong độ tuyệt vời của anh được duy trì trong suốt tháng 11, một tháng đấu mà anh chỉ để lọt lưới đúng một bàn và giữ sạch lưới năm trong sáu trận đấu. Anh cũng đã đạt cột mốc 50 trận giữ sạch lưới cho Arsenal vào ngày 26 tháng 11, trong trận đấu ở Champions League đối đầu với Olympique de Marseille, Arsenal đã giành chiến thắng với tỷ số 2-0.[35] Ngày 19 tháng 2 năm 2014 tại trận đấu lượt đi vòng 1/16 UEFA Champions League, Szczęsny phạm lỗi với Arjen Robben của Bayern München trong vòng cấm dẫn đến quả phạt đền và anh cũng bị truất quyền thi đấu. Mặc dù David Alaba của Bayern đá hỏng quả phạt đền, chung cuộc đội bóng Đức vẫn thắng 2-0.[36] Trong trận đấu kỷ niệm tròn 1000 trận huấn luyện viên Arsène Wenger dẫn đắt Arsenal ngày 22 tháng 3, Szczęsny được bắt chính nhưng đó là trận đấu mà Arsenal thảm bại 6-0 trước Chelsea.[37]
Anh không được ra sân trong trận Chung kết Cúp FA 2014 với Hull City nhưng đã có được danh hiệu đầu tiên tại Arsenal sau khi các đồng đội của anh đã đánh bại Hull City 3-2.[38] Với 16 trận giữ sạch lưới tại Giải ngoại hạng Anh 2013-14, Szczęsny đã cùng với thủ môn Petr Čech chia sẻ danh hiệu Barclays Golden Glove dù Szczęsny thi đấu nhiều hơn Čech ba trận.[39][40]
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Szczęsny chơi cho U21 Ba Lan và bắt chính cả ba trận ở vòng bảng Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2011. Anh dự kiến được gọi vào đội tuyển Ba Lan bởi huấn luyện viên Leo Beenhakker cho các trận đấu ở vòng loại World Cup trước Bắc Ireland và Slovenia vào đầu tháng 9 năm 2009. Tuy nhiên, do không ai trong số ba thủ môn hàng đầu của Ba Lan bị loại ra, nên anh đã không được gọi và thay vào đó anh sẽ thi đấu ở các trận vòng loại cho đội U21 trước Tây Ban Nha và Phần Lan. Tổng cộng anh có sáu lần ra sân cho đội U-21.[41]
Tháng 10 năm 2009, tân huấn luyện viên Franciszek Smuda lần đầu tiên triệu tập Szczęsny vào đội tuyển quốc gia cho các trận đấu giao hữu trước Romania và Canada.[5] Szczęsny có lần ra mắt ở đội tuyển trong trận đấu với Canada vào ngày 18 tháng 11, vào sân ở phút thứ 46 thay cho Tomasz Kuszczak.[42] Lần ra sân thứ hai của anh, cũng là trận đấu đầu tiên anh được chơi trọn vẹn cả trận, là vào tháng 2 năm 2011 ở trận giao hữu đối đầu với Na Uy.
Szczęsny có màn trình diễn chói sáng trong cuộc đối đầu với đội tuyển Đức vào ngày 6 tháng 9 năm 2011. Kết quả cuối cùng là 2-2, tuy nhiên Szczęsny đã có tám pha cứu thua quan trọng giúp cho Ba Lan không bị thủng lưới thêm bất kỳ bàn thua nào nữa. Màn trình diễn của anh ở trận đấu đó đã khiến anh nhận được sự khen ngợi từ cựu thủ môn của đội tuyển Đức, Oliver Kahn.[43][44] Anh đã bị đuổi khỏi sân trong trận đấu mở màn của Ba Lan trước Hy Lạp tại Euro 2012. Ở hiệp hai của trận đấu, Szczęsny đã phạm lỗi với Dimitris Salpingidis nhằm ngăn chặn cầu thủ này ghi bàn thắng thứ hai cho Hy Lạp. Pha phạm lỗi trong vòng cấm địa đã khiến Szczęsny bỏ lỡ trận đấu tiếp theo gặp đội tuyển Nga, và tặng cho Ba Lan một quả phạt đền, nhưng nó đã bị cản phá bởi Przemysław Tytoń, kết quả cuối cùng của trận đấu là 1-1.[45] Theo đó, Tytoń trở thành thủ môn đầu tiên trong lịch sử Giải vô địch bóng đá châu Âu cản phá được một quả phạt đền sau khi được tung vào sân từ băng ghế dự bị.[46] Szczęsny không được ra sân thêm một lần nào nữa tại Euro 2012 do Tytoń đã được chọn bắt chính ở những trận còn lại của Ba Lan tại vòng bảng, Ba Lan đã bị loại sau khi kết thúc ở vị trí cuối Bảng A với chỉ 2 điểm.
Anh tiếp tục có tên trong danh sách 23 cầu thủ Ba Lan tham dự Euro 2016 trên đất Pháp nhưng không có cơ hội ra sân. Đội tuyển Ba Lan sau đó lọt vào tứ kết và thua chung cuộc Bồ Đào Nha (đội sau đó đăng quang).
Tại World Cup 2018 tổ chức tại Nga, Szczęsny đã bắt chính trong cả ba trận vòng bảng trước Colombia, Nhật Bản và Sénégal. Chung cuộc Ba Lan rời giải với vị trí cuối bảng H.
Thống kê sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Câu lạc bộ
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 23 tháng 5 năm 2021[47]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải vô địch1 | FA Cup | League Cup | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | ||
Arsenal | 2009–10 | Premier League | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 |
Brentford (mượn) | 2009–10 | League One | 28 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 28 | 0 |
Arsenal | 2010–11 | Premier League | 15 | 0 | 2 | 0 | 5 | 0 | 2 | 0 | 0 | 0 | 24 | 0 |
2011–12 | 38 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 9 | 0 | 0 | 0 | 48 | 0 | ||
2012–13 | 25 | 0 | 4 | 0 | 1 | 0 | 3 | 0 | 0 | 0 | 33 | 0 | ||
2013–14 | 37 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 9 | 0 | 0 | 0 | 46 | 0 | ||
2014–15 | 17 | 0 | 5 | 0 | 0 | 0 | 6 | 0 | 1 | 0 | 29 | 0 | ||
Tổng cộng | 132 | 0 | 12 | 0 | 7 | 0 | 29 | 0 | 1 | 0 | 181 | 0 | ||
Roma (mượn) | 2015–16 | Serie A | 34 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 0 | 0 | 0 | 42 | 0 |
2016–17 | 38 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 0 | 0 | 39 | 0 | ||
Tổng cộng | 72 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 9 | 0 | 0 | 0 | 81 | 0 | ||
Juventus | 2017–18 | Serie A | 17 | 0 | 2 | 0 | — | 2 | 0 | 0 | 0 | 21 | 0 | |
2018–19 | 28 | 0 | 2 | 0 | — | 10 | 0 | 1 | 0 | 41 | 0 | |||
2019–20 | 29 | 0 | 0 | 0 | — | 7 | 0 | 1 | 0 | 37 | 0 | |||
2020–21 | 30 | 0 | 0 | 0 | — | 7 | 0 | 1 | 0 | 38 | 0 | |||
Tổng cộng | 104 | 0 | 4 | 0 | — | 26 | 0 | 3 | 0 | 137 | 0 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 336 | 0 | 16 | 0 | 7 | 0 | 64 | 0 | 4 | 0 | 427 | 0 |
- 1Bao gồm Premier League và League One.
Đội tuyển quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]- Tính đến ngày 28 tháng 8 năm 2024[48]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Số trận | Bàn thắng |
---|---|---|---|
Ba Lan | 2009 | 1 | 0 |
2010 | 0 | 0 | |
2011 | 6 | 0 | |
2012 | 5 | 0 | |
2013 | 1 | 0 | |
2014 | 6 | 0 | |
2015 | 7 | 0 | |
2016 | 2 | 0 | |
2017 | 4 | 0 | |
2018 | 8 | 0 | |
2019 | 6 | 0 | |
2020 | 3 | 0 | |
2021 | 13 | 0 | |
2022 | 7 | 0 | |
2023 | 9 | 0 | |
2024 | 2 | 0 | |
Tổng cộng | 84 | 0 |
Danh hiệu
[sửa | sửa mã nguồn]Arsenal
Juventus
- Serie A: 2017–18, 2018–19, 2019–20[52]
- Coppa Italia: 2017–18, 2020–21,[52] 2023–24[53]
- Supercoppa Italiana: 2018, 2020[52]
Cá nhân
[sửa | sửa mã nguồn]- Găng tay Vàng Premier League: 2013–14
- Thủ môn xuất sắc nhất Serie A: 2019–20
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “FIFA World Cup Russia 2018: List of Players: Poland” (PDF). FIFA. 15 tháng 7 năm 2018. tr. 22. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Wojciech Szczęsny”. 11v11.com. AFS Enterprises. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2020.
- ^ “Szczesny”. Juventus. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
- ^ a b Hytner, David (ngày 4 tháng 2 năm 2011). “Inside the weird world of Arsenal's new No1, Wojciech Szczesny”. The Guardian. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
- ^ a b Smuda powołał kadrę na mecze towarzyskie Lưu trữ 2019-08-13 tại Wayback Machine. 90minut.pl (22 tháng 3 năm 2012). Truy cập 21 tháng 4 năm 2012.
- ^ Dawidziuk, Adam (ngày 16 tháng 12 năm 2009). “Ranking polskich bramkarzy według Dowhania”. sports.pl. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Arsenal 2–0 West Brom”. BBC Sport. ngày 22 tháng 9 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2009.
- ^ “Exclusive Wenger webchat – Part Two”. Arsenal F.C. ngày 23 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
- ^ Dawson, Alan (ngày 28 tháng 12 năm 2009). “Arsene Wenger looking forward to Wojciech Szczesny's continued development at Arsenal”. Goal.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
- ^ Teale, Nick (ngày 26 tháng 1 năm 2010). “Wenger – Szczesny can be Arsenal's No 1”. Arsenal F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2010.
- ^ Teale, Nick (ngày 23 tháng 4 năm 2010). “Wenger – Szczesny is our future No. 1”. Arsenal F.C. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Brentford 0–0 Leeds United”. BBC Sport. ngày 12 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Brentford extend goalkeeper Wojciech Szczesny's loan”. BBC Sport. ngày 22 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2009.
- ^ “Wojciech Szczesny extends loan with Brentford”. Arsenal F.C. ngày 1 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2010.
- ^ “Szczesny earns Scott plaudits”. eurosport.yahoo.com. ngày 18 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2010.
- ^ “Gunner Szczesny hot over Scott sacking”. Mirror Football. ngày 3 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Szczesny: Arsenal's Nets Big Thing”. ministryofglove.com. ngày 29 tháng 10 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2010.
- ^ “Interview with Arsenal's new No1, Wojciech Szczesny”. Arsenal.ie. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Wojciech Szczesny pens new long-term contract”. Arsenal F.C. ngày 11 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Park puts United on top of Premier League”. Google. Agence France-Presse. ngày 13 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2010.
- ^ “Szczesny is Arsenal's No 1”. Arsenal F.C. ngày 28 tháng 1 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2010.
- ^ “Arsenal 2 – 1 Barcelona”. BBC Sport. ngày 16 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2011.
- ^ Wojciech Szczesny says Arsenal can overhaul Tottenham in the table | Football Lưu trữ 2012-03-02 tại Wayback Machine. The Guardian. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Arsenal confirm 2012/13 squad numbers”. Arsenal.com. ngày 25 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2012.
- ^ Ornstein, David (ngày 17 tháng 11 năm 2012). “Arsenal 5–2 Tottenham”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Man of the Match v Sunderland – Szczesny”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong:
|ngày truy cập=
(trợ giúp) - ^ “Bayern Munich v Arsenal: Wojciech Szczesny talent not in question, but mistakes cannot be ignored”. The Independent. ngày 14 tháng 3 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Lukasz Fabianski's cracked rib gives Wojciech Szczesny chance of a run”. The Guardian. ngày 18 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Crystal Palace 0-2 Arsenal”. BBC Sport. ngày 26 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Arsenal 2-0 Liverpool”. BBC Sport. ngày 2 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Borussia Dortmund 0-1 Arsenal”. BBC Sport. ngày 6 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Wenger clear on Szczesny concussion”. Fox Sports. ngày 10 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2013.
- ^ “André Villas-Boas blasts 'incompetent critics' in Hugo Lloris concussion row”. The Guardian. ngày 6 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2024. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Szczesny signs new long-term contract”. Arsenal F.C. ngày 16 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2013.
- ^ “Wenger: Szczesny can be an Arsenal great”. Arsenal F.C. ngày 28 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2013.
- ^ Wallace, Sam (ngày 20 tháng 2 năm 2014). “Arsenal 0 Bayern München 2 match report”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2014.
- ^ Phù Sa (ngày 22 tháng 3 năm 2014). “Chelsea chà đạp Arsenal trong ngày trọng đại của Wenger”. Dân Trí. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
- ^ McNulty, Phil (ngày 17 tháng 5 năm 2014). “Arsenal 3-2 Hull”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Suarez and Pulis claim Barclays season awards”. Premier League. ngày 13 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2014.
- ^ “Luis Suarez collects Golden Boot, but Petr Cech and Wojciech Szczesny have to share Golden Glove”. The Independent. ngày 21 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2014.
- ^ – Wojciech Szczesny Lưu trữ 2010-01-12 tại Wayback Machine. Transfermarkt.co.uk (ngày 18 tháng 4 năm 1990). Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2012.
- ^ “Polacy wreszcie strzelają”. 90minut.pl. ngày 18 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2009.
- ^ “Szczesny – Kahn praise has motivated me”. Arsenal F.C. ngày 7 tháng 10 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
- ^ “'Playing for Poland is the best feeling in the world' – Arsenal goalkeeper Wojciech Szczesny”. Goal.com. ngày 7 tháng 10 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2011.
- ^ “Poland 1–1 Greece”. BBC Sport. ngày 8 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2012.
- ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
- ^ “Wojciech Szczesny”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
- ^ Wojciech.html “Wojciech Szczęsny” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2012. - ^ McNulty, Phil (17 tháng 5 năm 2014). “Arsenal 3–2 Hull City”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2020.
- ^ McNulty, Phil (30 tháng 5 năm 2015). “Arsenal 4–0 Aston Villa”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2020.
- ^ Sanghera, Mandeep (10 tháng 8 năm 2014). “Arsenal 3–0 Manchester City”. BBC Sport. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2020.
- ^ a b c Wojciech Szczęsny tại Soccerway
- ^ “LA JUVENTUS VINCE LA COPPA ITALIA FRECCIAROSSA” [JUVENTUS WINS THE FRECCIAROSSA ITALIAN CUP] (bằng tiếng Ý). Lega Serie A. 16 tháng 5 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2024.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
được định nghĩa trong <references>
có tên “90minut” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
được định nghĩa trong <references>
có tên “guardianfeb4” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “Poland – Wojciech Szczesny” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.
<ref>
có tên “arsenal” được định nghĩa trong <references>
không được đoạn văn bản trên sử dụng.Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Wojciech Szczęsny. |
- Hồ sơ cầu thủ tại 90minut.pl (tiếng Ba Lan)
- Hồ sơ cá nhân Wojciech Szczęsny tại Arsenal F.C.
- Wojciech Szczęsny tại Soccerbase
- Hồ sơ cá nhân tại ESPN Lưu trữ 2012-01-15 tại Wayback Machine
- Sinh năm 1990
- Nhân vật còn sống
- Người Warszawa
- Thủ môn bóng đá nam
- Cầu thủ bóng đá nam Ba Lan
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ba Lan
- Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
- Cầu thủ bóng đá Brentford F.C.
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá A.S. Roma
- Cầu thủ bóng đá Juventus
- Cầu thủ bóng đá Serie A
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
- Cầu thủ bóng đá English Football League
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ba Lan
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ba Lan
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2016
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024