Xung đột Papua
Xung đột Papua | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Tranh chấp Tây New Guinea | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Indonesia |
Phong trào Tự do Papua | ||||||
Thành phần tham chiến | |||||||
|
Các đơn vị tự trị trực | ||||||
Lực lượng | |||||||
Không rõ | Không rõ | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
ít nhất 72 binh sĩ và 34 cảnh sát thiệt mạng (2010 – tháng 3 năm 2022)[10] | ít nhất 38 người thiệt mạng (2010 – tháng 3 năm 2022)[10] | ||||||
Các ước tính vào khoảng 100,000[11] đến 500,000 người thiệt mạng[12] |
Xung đột Papua là một cuộc xung đột đang diễn ra ở Tây New Guinea, giữa Indonesia và Phong trào Tự do Papua (tiếng Indonesia: Organisasi Papua Merdeka, OPM). Sau khi chính quyền Hà Lan rút khỏi New Guinea thuộc Hà Lan vào năm 1962[13] và chính quyền Indonesia tiếp quản vào năm 1963,[14] Phong trào Tự do Papua đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích cường độ thấp chống lại Indonesia thông qua việc tấn công vào quân đội, cảnh sát[15] và dân thường.[16]
Những người ly khai Papua đã tiến hành các cuộc biểu tình và nghi lễ, giương cao lá cờ đòi độc lập hoặc kêu gọi thành lập liên bang với Papua New Guinea,[15] và cáo buộc chính phủ Indonesia gây bạo lực bừa bãi và đàn áp quyền tự do ngôn luận của họ. Indonesia đã bị buộc tội tiến hành một chiến dịch diệt chủng cư dân bản địa.[17] Trong một cuốn sách xuất bản năm 2007, tác giả De R.G. Crocombe đã viết rằng ước tính có khoảng 100.000 đến 300.000 người Papua đã bị lực lượng an ninh Indonesia giết hại,[11] và nhiều phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bạo hành tình dục.[18] Nghiên cứu về bạo lực đối với phụ nữ Papua[Note 1] của Nhóm Công tác Phụ nữ Papua và Tổ chức Quyền Tư pháp Châu Á (AJAR) cho thấy 64 trong số 170 (hoặc 4 trong số 10) phụ nữ Papua được khảo sát vào năm 2013, 2017,[19] và nghiên cứu gần đây nhất từ năm 2019, cho thấy 65 trong số 249 phụ nữ Papua đã trải qua một số hình thức bạo lực của nhà nước.[Note 2][20][21] Theo nghiên cứu trước đây và cựu tù nhân chính trị Ambrosius Mulait, hầu hết bạo lực đối với phụ nữ Papua xảy ra do bạo lực gia đình của người chồng và quan điểm văn hóa của người Papua đối với người vợ cho rằng họ đã được 'trả công'.[22]
Cách quản trị của Indonesia đã được so sánh với một nhà nước cảnh sát, đàn áp quyền tự do của hiệp hội chính trị và biểu đạt chính trị,[23] mặc dù những người khác đã lưu ý rằng xung đột ở Papua thì lại do tình trạng tương tự vô chính phủ ở một số khu vực.[24] Các nhà hoạt động vì quyền phụ nữ, chẳng hạn như Fien Jarangga, ủng hộ phong trào đòi độc lập.[25]
Chính quyền Indonesia tiếp tục hạn chế người nước ngoài tiếp cận khu vực mà họ chính thức tuyên bố là một "mối quan ngại về an toàn và an ninh".[26] Một số tổ chức đã kêu gọi thực hiện một nhiệm vụ gìn giữ hòa bình trong khu vực.[27][28]
Tổng quan bối cảnh
[sửa | sửa mã nguồn]Tháng 12 năm 1949, sau khi Cách mạng Dân tộc Indonesia kết thúc, Hà Lan đã đồng ý công nhận chủ quyền của Indonesia đối với các lãnh thổ Đông Ấn Hà Lan trước đây, ngoại trừ Tây New Guinea mà Hà Lan tiếp tục quản lý với tên gọi New Guinea thuộc Hà Lan. Chính phủ Indonesia theo chủ nghĩa dân tộc đã lập luận rằng họ là nước thừa kế toàn bộ Đông Ấn Hà Lan và muốn chấm dứt sự hiện diện của thực dân Hà Lan tại quần đảo này. Hà Lan thì lập luận rằng người Papua khác biệt về sắc tộc[29] và Hà Lan sẽ tiếp tục quản lý lãnh thổ cho đến khi có khả năng tự quyết.[30] Từ năm 1950 trở đi, Hà Lan và các cường quốc phương Tây đồng ý rằng người Papua nên thành lập một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, do những biến động toàn cầu, chủ yếu là mối quan tâm của chính quyền Kennedy muốn giữ Indonesia đứng về phía họ trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ gây áp lực buộc Hà Lan phải hủy bỏ nền độc lập của Papua và chuyển giao lãnh thổ cho Indonesia.[31]
Năm 1962, Hà Lan đồng ý giao lãnh thổ này cho Liên Hợp Quốc quản lý tạm thời và ký kết Thỏa thuận New York, trong đó có điều khoản rằng một cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức trước năm 1969. Quân đội Indonesia đã tổ chức cuộc bỏ phiếu này, được gọi là Đạo luật Tự do Lựa chọn năm 1969, để xác định quan điểm của người dân về tương lai của lãnh thổ. Kết quả là có lợi cho việc sáp nhập vào Indonesia. Tuy vậy, cuộc bỏ phiếu lại vi phạm Thỏa thuận giữa Indonesia và Hà Lan rằng quân đội Indonesia đã có mặt trong cuộc trưng cầu, và chỉ có 1.025 người được chọn bằng tay, là những người bị "buộc trước họng súng" bỏ phiếu ủng hộ sáp nhập, ít hơn nhiều so với 1% trong số những người lẽ ra đã đủ điều kiện để bỏ phiếu. Do đó, tính hợp pháp của cuộc bỏ phiếu bị các nhà hoạt động độc lập tranh cãi, những người phản đối việc Indonesia chiếm đóng quân sự ở Papua.[32] Indonesia thường xuyên bị cáo buộc vi phạm nhân quyền. Chúng bao gồm các cuộc tấn công vào những thường dân ủng hội OPM và bỏ tù những người giương cao lá cờ quốc gia Moring Star của Tây Papua vì tội phản quốc.[33]
Thông qua chương trình di cư, kể từ năm 1969, bao gồm cả di cư đến Papua, khoảng một nửa cư dân của Papua Indonesia là người di cư.[34] Hôn nhân giữa các chủng tộc ngày càng gia tăng và con cái của những người kết hôn liên dân tộc đã coi mình là "Papua" hơn là nhóm dân tộc của cha mẹ họ.[35] Tính đến năm 2010, 13.500 người tị nạn Papua sống lưu vong ở nước láng giềng Papua New Guinea (PNG),[34] và thỉnh thoảng, giao tranh tràn qua biên giới. Do đó, Lực lượng Phòng vệ Papua New Guinea (PNGDF) đã thiết lập các cuộc tuần tra dọc theo biên giới phía tây của PNG để ngăn chặn sự xâm nhập của OPM. Ngoài ra, chính phủ PNG đã trục xuất những cư dân "vượt biên" và đưa ra điều kiện để những người di cư ở lại PNG là cam kết không có hoạt động chống Indonesia. Kể từ cuối những năm 1970, OPM đã đưa ra "các mối đe dọa đối với các dự án kinh doanh và chính trị gia của PNG để trả đũa vì các hoạt động của PNGDF chống lại OPM".[36] PNGDF đã thực hiện các cuộc tuần tra biên giới chung với Indonesia từ những năm 1980, mặc dù các hoạt động của PNGDF chống lại OPM là "song song".[37]
Các bên ủng hộ quyền tự quyết
[sửa | sửa mã nguồn]Quốc gia
[sửa | sửa mã nguồn]Các quốc gia sau đã tố cáo Đạo luật Tự do Lựa chọn và/hoặc ủng hộ quyền tự quyết của người Papua:
- Saint Vincent và Grenadines – Saint Vincent và Grenadines bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA, theo lời phát biểu của Phó Thủ tướng Louis Straker.[38]
- Vanuatu – Vanuatu đã thông qua Dự luật Wantok Blong Yumi vào năm 2010[39] và bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA.[40]
- Quần đảo Solomon – Quần đảo Solomon bày tỏ sự ủng hộ đối với quyền tự quyết của người Papua vào năm 2017 tại UNGA.[40]
- Tonga – Thủ tướng Tonga ʻAkilisi Pōhiva kêu gọi thế giới hành động về tình hình nhân quyền ở khu vực Tây Papua của Indonesia.[41][42]
- Tuvalu – Cựu Thủ tướng Enele Sopoaga ủng hộ quyền tự quyết của người Papua tại Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc năm 2017, và ký tuyên bố chung với các đảo quốc Thái Bình Dương khác vào tháng 5 năm 2017.[43][44]
- Nauru – Năm 2017, Nauru đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua.[44]
- Palau – Năm 2017, Palau đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua.[44]
- Quần đảo Marshall – Năm 2017, Quần đảo Marshall đã ký một tuyên bố chung ủng hộ quyền tự quyết của người Papua.[44]
Chính trị gia
[sửa | sửa mã nguồn]Đảng chính trị
[sửa | sửa mã nguồn]Tên | Quốc gia | Chú thích |
---|---|---|
Đảng Cộng sản Úc | Úc | [46] |
Đảng Xanh Úc | Úc | [46] |
Đảng Lao động Dân chủ | Úc | [56] |
Đảng Xã hội Malaysia | Malaysia | [57] |
Các tổ chức khác
[sửa | sửa mã nguồn]Nghị viện Quốc tế về Tây Papua là một tổ chức chính trị quốc tế ủng hộ nền độc lập của Tây Papua.
Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ From a sample of 249 Papuan women, 6 women suffered illegal detentions, 7 women experienced torture, 3 women experienced attempted shooting, 4 women experienced sexual violence, 18 women had husbands/family members disappeared or killed, 2 women had husbands/family members detained, 35 women experienced loss or destruction of property, 22 women experienced loss of indigenous land, and 37 women experienced domestic violence
- ^ State violence is defined as illegal detentions, torture, attempted shooting, sexual violence, husbands/family members disappeared or killed, husbands/family members detained, loss or destruction of property, loss of indigenous land committed by state covering three periods of 1977–78, 2005, and 2007.
- ^ Cựu Tổng thống Senegal.
- ^ Cựu Thủ tướng Tonga.
- ^ Cựu Thủ tướng Ghana.
- ^ Cựu Tổng thống Ghana.
- ^ Thủ tướng Quần đảo Solomon đương nhiệm.
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Southwest Papua Province inaugurated, Indonesia now has 38 provinces”. Indonesiawindow.com. 10 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2023.
- ^ “Het korte bestaan van het Papoea Vrijwilligers Korps | Stichting Papua Erfgoed (PACE)”. papuaerfgoed.org. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2012.
- ^ The current status of the Papuan pro-independence movement (PDF) (Bản báo cáo). IPAC Report. Jakarta: Institute for Policy Analysis of Conflict. 24 tháng 8 năm 2015. OCLC 974913162. Lưu trữ (PDF) bản gốc 11 tháng Chín năm 2015. Truy cập 24 tháng Mười năm 2017.
- ^ “38 Year TPN-OPM No Unity and Struggle After the Reformation” (PDF). National Liberation Army of West Papua (TPNPB). 9 tháng 6 năm 2016. Lưu trữ (PDF) bản gốc 24 tháng Mười năm 2017. Truy cập 24 tháng Mười năm 2017.
- ^ Maran, Major Arm Fence D (2008). Anatomy of Separatists (PDF) (Bản báo cáo). Indonesian intelligence. Lưu trữ (PDF) bản gốc 17 tháng Mười năm 2011. Truy cập 22 tháng Mười năm 2017.
- ^ “Bantu KKB Papua, Batalion Relawan PNG Nyatakan Perang Lawan Indonesia”. Manado Post. 10 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2022.
- ^ “West Papua liberation movement announces provisional govt”. RNZ. 3 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2022.
- ^ Nedabang, Alfons (4 tháng 1 năm 2023). “KKB Papua - Juru Bicara TPNPB Sebby Sambom: Kami Tidak Akui Benny Wenda dan Damianus Yogi” [KKB Papua - TPNPB Spokesman Sebby Sambom: We Don't Recognize Benny Wenda and Damianus Yogi]. Pos Kupang (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2023.
- ^ “13 years of Indonesian harassment, but KNPB's 'spirit remains unbroken'”. Asia Pacific Report. 21 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2022.
- ^ a b “Kekerasan di Papua Telan Ratusan Korban Jiwa, Mayoritas Warga Sipil | Databoks”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2022.
- ^ a b Crocombe, R. G. (2007). Asia in the Pacific Islands: Replacing the West. Suva, Fiji: IPS Publications, University of the South Pacific. tr. 287. ISBN 9789820203884. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2021.
- ^ Jacob, Frank (5 tháng 8 năm 2019). Genocide and Mass Violence in Asia: An Introductory Reader (bằng tiếng Anh). Walter de Gruyter GmbH & Co KG. tr. 161. ISBN 978-3-11-065905-4.
- ^ “Papua als Teil Indonesiens”. Indonesia-portal. Bản gốc lưu trữ 19 tháng Bảy năm 2011. Truy cập 15 Tháng tư năm 2011.
- ^ United Nations Temporary Executive Authority in West Irian (UNTEA) (1962–1963) (PDF) (Bản báo cáo). United Nations Archives and Records Management Section. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2019.
In 1963 Dutch New Guinea became Irian Barat, which in 1973 changed its name to Irian Jaya and is currently administered by Indonesia.
- ^ a b Pike, John (17 tháng 4 năm 2009). “Free Papua Movement”. Federation of American Scientists. Lưu trữ bản gốc 13 tháng Năm năm 2011. Truy cập 20 Tháng tư năm 2011.
- ^ “Papuan 'separatists' vs Jihadi 'terrorists': Indonesian policy dilemmas” (bằng tiếng Anh). Crisis Group. 5 tháng 12 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021.
- ^ Brundige, Elizabeth; King, Winter; Vahali, Priyneha; Vladeck, Stephen; Yuan, Xiang (tháng 4 năm 2004). “Indonesian Human Rights Abuses in West Papua: Application of the Law of Genocide to the History of Indonesian Control” (PDF). Allard K. Lowenstein International Human Rights Clinic, Yale Law School. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2019.
- ^ Crocombe 2007, tr. 289.
- ^ Congressional Record, V. 151, Pt. 12, July 14 to July 22, 2005. Government Printing Office. 30 tháng 12 năm 2009. tr. 2. ISBN 9780160848032. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2020.
- ^ “Sa Ada Di Sini: Suara Perempuan Papua Menghadapi Kekerasan yang Tak Kunjung Usai” (PDF). Asia Justice and Rights. 3 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2022.
- ^ “4 out of 10 West Papuan women found to have been subjected to Indonesian state violence”. 19 tháng 10 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2022.
- ^ Raharjo, Dwi Bowo (17 tháng 9 năm 2021). “Derita Perempuan Menikah di Papua, Kerap Alami Kekerasan karena Dianggap Sudah Dibeli”. suara.com (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
- ^ “Protest and punishment : political prisoners in Papua : Indonesia” (PDF). Human Rights Watch. New York. 10 (4(C)). 2007. OCLC 488476678. Lưu trữ (PDF) bản gốc 23 Tháng mười hai năm 2015. Truy cập 3 tháng Mười năm 2017.
- ^ Anderson, Bobby (2015). Papua's insecurity : state failure in the Indonesian periphery. Honolulu, Hawai'i: East-West Center. ISBN 978-0-86638-265-6. OCLC 923796817.
- ^ “Lawyers, local leaders file for judicial review of Papuan referendum”. The Jakarta Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2021.
- ^ “Indonesia Limits Access for Foreigners to Papua and West Papua”. Jakarta Globe. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2019.
- ^ “Pacific: Church group proposes regional peacekeeping mission to West Papua”. ABC Radio Australia. 4 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2020.
- ^ “Uprising in West Papua, as Calls for Independence Grow”. Sydney Criminal Lawyers. 4 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2020.
- ^ Singh, Bilveer (2008). Papua: Geopolitics and the Quest for Nationhood. Transaction Publishers. tr. 61–64.
- ^ Penders, Christian Lambert Maria (2002). The West New Guinea Debacle: Dutch Decolonization and Indonesia, 1945–1962. Honolulu: University of Hawaii Press. tr. 154. ISBN 0824824709.
- ^ Bilveer Singh, page 2
- ^ Crocombe 2007, tr. 284, 285, 286–291.
- ^ Lintner, Bertil (21 tháng 1 năm 2009). “Papuans Try to Keep Cause Alive”. Jakarta Globe. Lưu trữ bản gốc 2 Tháng Một năm 2014. Truy cập 9 Tháng hai năm 2009.
- ^ a b Celerier, Philippe Pataud (tháng 6 năm 2010). “Autonomy isn't independence; Indonesian democracy stops in Papua”. Le Monde Diplomatique. Lưu trữ bản gốc 7 Tháng mười hai năm 2011.
- ^ Heidbüchel, Esther (2007). The West Papua Conflict in Indonesia: Actors, Issues, and Approaches. Wettenberg: J & J Verlag. tr. 87–89. ISBN 9783937983103.
- ^ May, Ronald James (2001). State and Society in Papua New Guinea: The First Twenty-Five Years. ANU E Press. tr. 238, 269, 294.
- ^ King, Peter (2004). West Papua & Indonesia since Suharto: Independence, Autonomy, or Chaos?. UNSW Press. tr. 179.
- ^ “St Vincent & The Grenadines supports West Papuan self-determination at the United Nations General Assembly”. Free West Papua. 26 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2022.
- ^ Manning, Selwyn (22 tháng 6 năm 2010). “Vanuatu to seek observer status for West Papua at MSG and PIF leaders summits”. Pacific Scoop. Lưu trữ bản gốc 22 tháng Mười năm 2017. Truy cập 20 tháng Mười năm 2017.
- ^ a b “Fiery debate over West Papua at UN General Assembly”. Radio New Zealand 2017. 27 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc 1 tháng Mười năm 2017. Truy cập 7 tháng Mười năm 2017.
- ^ “Tonga's PM highlights Papua issue at UN”. Radio New Zealand. 1 tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2020.
- ^ Komai, Makereta (14 tháng 8 năm 2019). “Tongan PM speaks out for West Papua and questions solidarity and regionalism”. Papua New Guinea Today. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
- ^ “Tuvalu supports West Papuan self-determination at the United Nations General Assembly”. Free West Papua. 21 tháng 9 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2021.
- ^ a b c d “Pacific nations back West Papuan self-determination”. RNZ. 6 tháng 5 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2021.
- ^ “President of Senegal – "West Papua is now an issue for all black Africans"”. 19 tháng 12 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
- ^ a b c d “The Australian left is known for backing Papuan independence – but it wasn't always this way”. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2022.
- ^ “Tonga's PM highlights Papua issue at UN”. Radio New Zealand. tháng 10 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Tongan PM speaks out for West Papua and questions solidarity and regionalism”. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
- ^ Davidson, Helen (6 tháng 5 năm 2016). “Jeremy Corbyn on West Papua: UK Labour leader calls for independence vote”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc 11 Tháng Một năm 2018.
- ^ a b “Help us fight for independence – West Papua calls on Ghana”. ghanaweb.com. 9 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2022.
- ^ “Solomons pm softens west Papua self-determination support”. Australian Broadcasting Corporation. 29 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc 4 tháng Năm năm 2020. Truy cập 14 Tháng sáu năm 2020.
- ^ “Demo for West Papua independence at NZ parliament”. Radio New Zealand. 1 tháng 12 năm 2020.
- ^ “Menlu Respons soal Gubernur Papua Nugini Dukung Papua Merdeka”. CNN Indonesia. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2020.
- ^ “Greens Leader Richard Di Natale Calls For BP Rethink On West Papuan Gas Field”. New Matilda. 6 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc 30 Tháng mười một năm 2018. Truy cập 30 Tháng mười một năm 2018.
- ^ Ludlam, Scott (3 tháng 5 năm 2016). “Greens join international calls for West Papuan self-determination”. greensmps.org.au. Australian Greens. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2021.
- ^ “Papua focus for Australia's Democratic Labour Party”. Radio New Zealand. 27 tháng 5 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.
- ^ “Let the Morning Star Flag fly: Solidarity with the West Papua's struggle for self-determination”. partisosialis.org. Socialist Party of Malaysia. 1 tháng 12 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Kerry Boyd Collison, "Rockefeller and the Demise of Ibu Pertiwi" ISBN 9781921030987
- Bobby Anderson, "Papua's Insecurity: State Failure in the Indonesian Periphery", East-West Center, Policy Studies 73, 978-0-86638-264-9 (print); 978-0-86638-265-6 (electronic)
- Richard Chauvel, Ikrar Nusa Bhakti, The Papua conflict: Jakarta's perceptions and policies, 2004, ISBN 1-932728-08-2, ISBN 978-1-932728-08-8
- Esther Heidbüchel, The West Papua conflict in Indonesia: actors, issues and approaches, 2007, ISBN 3-937983-10-4, ISBN 978-3-937983-10-3
- J. Budi Hernawan, Papua land of peace: addressing conflict building peace in West Papua, 2005
- King, Blair (2006). Peace in Papua: widening a window of opportunity. ISBN 978-0-87609-357-3.
- Osborne, Robin (1985). Indonesia's secret war : the guerilla struggle in Irian Jaya. Sydney: Allen & Unwin. ISBN 978-0-86861519-6.