Nước hoa
Nước hoa hay dầu thơm (tiếng Anh: Perfume, tiếng Pháp: parfum) là hỗn hợp của tinh dầu thơm hoặc các hợp chất tạo mùi thơm, chất hãm hương (lưu hương) và dung môi, thường ở dạng lỏng. Sử dụng với mục đích tạo ra mùi thơm cho cơ thể, cảm giác dễ chịu, sự quyến rũ giới tính hay đơn giản chỉ là che giấu một mùi khó chịu nào đó.[1]
Các văn bản cổ và các cuộc khai quật khảo cổ cho thấy việc sử dụng nước hoa trong một số nền văn minh tiền sử. Nước hoa hiện đại bắt đầu vào cuối thế kỷ 19 với sự tổng hợp của các hợp chất tạo mùi thơm thương mại như vanillin hoặc coumarin, cho phép tạo ra nước hoa có mùi mà trước đây không thể đạt được nếu chỉ dùng các chất thơm tự nhiên.
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Từ nước hoa trong tiếng Anh (Perfume) bắt nguồn từ tiếng Latinh perfumare, có nghĩa là "hút qua".[2] Nước hoa cũng như nghệ thuật làm nước hoa bắt nguồn từ vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Văn minh lưu vực sông Ấn cổ đại và có thể cả Trung Quốc cổ đại. Nó được người La Mã và người Ả Rập tinh chỉnh thêm.
Nhà hóa học được ghi nhận đầu tiên trên thế giới được cho là một phụ nữ tên là Tapputi, một nhà sản xuất nước hoa được nhắc đến trong một bảng chữ hình nêm từ thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên ở Lưỡng Hà.[3] Cô chưng cất hoa, dầu và cây Thủy xương bồ với các chất thơm khác, sau đó lọc và đặt chúng trở lại trong bình nhiều lần.[4]
Trên tiểu lục địa Ấn Độ, nước hoa và cách làm nước hoa đã tồn tại trong nền văn minh lưu vực sông Ấn (3300 TCN - 1300 TCN).[5]
Năm 2003,[6] các nhà khảo cổ học đã khám phá ra thứ được cho là loại nước hoa lâu đời nhất còn sót lại trên thế giới ở Pyrgos, Cộng hòa Síp. Nước hoa có niên đại hơn 4.000 năm. Chúng được phát hiện trong một xưởng sản xuất nước hoa cổ, rộng 300 mét vuông (3.230 sq ft)[6] chứa ít nhất 60 ảnh tĩnh, bát trộn, phễu và chai nước hoa. Vào thời cổ đại, người ta sử dụng các loại thảo mộc và gia vị như Hạnh đào, rau mùi, Hương đào, nhựa cây tùng và cam Bergamot cùng một số hoa khác.[7] Vào tháng 5 năm 2018, một loại nước hoa cổ đại "Rodo" (Hoa hồng) đã được tái chế trong buổi trình diễn kỷ niệm "Vô số khía cạnh của vẻ đẹp" của Bảo tàng Khảo cổ học Quốc gia Hy Lạp, cho phép du khách trở về thời cổ đại thông qua khứu giác.[8]
Vào thế kỷ thứ 9, nhà hóa học người Ả Rập al-Kindī (Alkindus) đã viết cuốn sách Hóa học về nước hoa và chưng cất, trong đó có hơn một trăm công thức sản xuất dầu thơm, nước muối, nước thơm và các chất thay thế hoặc bắt chước các loại thuốc đắt tiền. Cuốn sách cũng mô tả 107 phương pháp và công thức sản xuất nước hoa và thiết bị làm nước hoa như nồi cất (vẫn mang tên tiếng Ả Rập của nó.[9][10] [từ tiếng Hy Lạp ἄμβιξ chó nghĩa là "cốc", "cốc mỏ"][11][12] được Synesius mô tả vào thế kỷ thứ 4[13]).
Nhà hóa học Ba Tư Ibn Sina (còn được gọi là Avicenna) đã giới thiệu quy trình chiết xuất tinh dầu từ hoa bằng phương pháp chưng cất, quy trình được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Lần đầu tiên, ông thử nghiệm với hoa hồng. Cho đến khi ông phát hiện ra, nước hoa dạng lỏng bao gồm hỗn hợp dầu và các loại thảo mộc hoặc cánh hoa nghiền nát tạo thành một hỗn hợp nồng đậm. Nước hoa hồng tinh tế hơn và ngay lập tức trở nên phổ biến. Cả nguyên liệu thô và công nghệ chưng cất của ông đều ảnh hưởng đáng kể đến quá trình phát triển khoa học và nước hoa phương Tây, đặc biệt là hóa học.
Nghệ thuật làm nước hoa có lẽ đã được biết đến ở Tây Âu từ năm 1221, dựa trên các công thức nấu ăn của các tu sĩ ở Santa Maria delle Vigne hoặc Santa Maria Novella ở Firenze, Ý.[14] Ở phương đông, người Hungary đã sản xuất một loại nước hoa làm từ dầu thơm pha trong dung dịch cồn - hay được gọi là Nước Hungary - theo lệnh của Nữ hoàng Elizabeth của Hungary vào khoảng năm 1370.[15][16][17] Nghệ thuật làm nước hoa thịnh vượng ở Ý thời Phục hưng, và vào thế kỷ 16, nhà pha chế nước hoa riêng cho Caterina de' Medici (1519–1589) là René người Firenze (Renato il fiorentino) đã mang những cải tiến của Ý đến Pháp. Phòng thí nghiệm của anh được kết nối với các căn hộ của cô bằng một lối đi bí mật để không có công thức nào có thể bị đánh cắp trên đường đi. Nhờ Rene, Pháp nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm sản xuất nước hoa và mỹ phẩm của Châu Âu. Việc trồng hoa để lấy tinh chất nước hoa bắt đầu từ thế kỷ 14 và đã phát triển thành một ngành công nghiệp quan trọng ở miền Nam nước Pháp.
Giữa thế kỷ 16 và 17, nước hoa chủ yếu được sử dụng bởi những người giàu có để che đi mùi cơ thể do tắm rửa không thường xuyên. Năm 1693, thợ cắt tóc người Ý Giovanni Paolo Feminis đã tạo ra một loại nước hoa có tên Aqua Admirabilis,[18] ngày nay được biết đến nhiều nhất với tên gọi eau de cologne; cháu trai của ông là Johann Maria Farina (Giovanni Maria Farina) tiếp quản công việc kinh doanh vào năm 1732.[19][20]
Vào thế kỷ 18, vùng Grasse của Pháp, Sicilia và Calabria (ở Ý) đã trồng cây thơm để cung cấp nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp nước hoa đang phát triển. Ngay cả ngày nay, Ý và Pháp vẫn là trung tâm của thiết kế và thương mại nước hoa châu Âu.
-
Bình nước hoa Ai Cập cổ đại hình chữ amphoriskos; 664–630 TCN; kính: 8× 4 cm (3,1 8× 1,5 in); Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (Thành phố New York)
-
Chai nước hoa Hy Lạp cổ đại có hình một vận động viên đang buộc một dải băng chiến thắng quanh đầu; khoảng năm 540 trước Công nguyên; Bảo tàng Agora cổ đại (Athens)
-
Bình nước hoa thời Etrusca có khắc chữ "suthina" (nghĩa là "dùng cho lăng mộ"); đầu thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên; đồ đồng; chiều cao: 16 cm; Viện bảo tàng Louvre
-
alabastron (chai nước hoa) thời Hy Lạp hóa bằng thủy tinh khảm vàng lá; Thế kỷ 1 trước Công nguyên; thủy tinh và vàng lá; Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan
-
Bình nước hoa La Mã; Thế kỷ 1 sau Công nguyên; bình thủy tinh; 5,2 x 3,8 cm; bảo tàng nghệ thuật Metropolitan
-
Vò hai quai đựng nước hoa bị hỏng một phần; Thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên; cốc thủy tinh; từ Ephesus; Bảo tàng khảo cổ Ephesus (Selçuk, Thổ Nhĩ Kỳ)
-
Bình nước hoa Rococo của Anh; khoảng năm 1761; làm bằng sứ xốp; kích thước tổng thể: 43,2 × 29,2 × 17,8 cm; bảo tàng nghệ thuật Metropolitan
-
Cặp đèn đốt nước hoa Tân cổ điển của Anh; có lẽ vào khoảng năm 1770; làm từ fluorin, mai rùa và gỗ, đế đá hoa Carrara, giá đỡ bằng đồng mạ vàng, lớp lót bằng đồng mạ vàng; 33 × 14,3 × 14,3 cm; bảo tàng nghệ thuật Metropolitan
-
Chai nước hoa Art Nouveau; khoảng năm 1900; kính với vỏ kim loại mạ vàng, cao: 13,4 cm; Bảo tàng Nghệ thuật Cleveland (Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ)
Các cấp pha loãng
[sửa | sửa mã nguồn]Các loại nước hoa phản ánh nồng độ của các hợp chất thơm trong dung môi, trong đó có mùi thơm đặc trưng là etanol hoặc hỗn hợp nước và etanol. Các nguồn khác nhau đáng kể trong định nghĩa của các loại nước hoa. Cường độ và tuổi thọ của nước hoa dựa trên nồng độ, cường độ và tuổi thọ của các hợp chất thơm hoặc tinh dầu nước hoa. Khi nồng độ các hợp chất thơm tăng lên thì cường độ và tuổi thọ của mùi hương cũng tăng theo. Các thuật ngữ cụ thể được sử dụng để mô tả nồng độ gần đúng của hương thơm bằng phần trăm tinh dầu nước hoa trên thể tích của sản phẩm cuối cùng. Các thuật ngữ phổ biến nhất[21] là:
- Parfum hay Extrait: là chiết xuất nước hoa, nước hoa nguyên chất với hàm lượng tinh dầu từ 20-40% (IFRA: thường ~ 20%), đây là loại nước hoa đắt nhất và hiếm nhất vì nồng độ tinh dầu rất cao, đồng nghĩa với việc mùi hương rất nồng và bền.
- Esprit de Parfum (ESdP): 15–30% hợp chất thơm, nồng độ mạnh hiếm khi được sử dụng giữa EdP và nước hoa;
- Eau de Perfume (EdP) hay parfum de toilette (PdT): với hàm lượng tinh dầu từ 12-20%, đậm đặc nhất. Loại nước hoa chủ yếu dành cho phái nữ với nồng độ tinh dầu cao, nồng nàn và bền mùi. Là dạng nước hoa phổ biến hiện nay, sử dụng hợp với những vùng khí hậu khô hay mùa lạnh.
- Eau de Toilette (EdT): có từ 5-12% tinh dầu. Loại nước hoa phổ biến nhất hiện nay trên thế giới với giá cả phải chăng và chất lượng mùi hương trung bình. Đa dạng về mẫu mã, chủng loại hay nhà sản xuất. Đây là loại nước hoa với mùi nhẹ nhàng, khá bền mùi và được dùng cho cả nam và nữ.
- Eau de Cologne (EdC): chỉ có 3–8% tinh dầu (thường ~ 5%); Thương hiệu (reg. trademark): 'Original Eau de Cologne' - Ra đời lần đầu tiên ở thành phố Cologne của Đức, sau đó lan rộng ra toàn thế giới. Mùi nhẹ, khả năng giữ mùi kém, phù hợp với túi tiền "bình dân".
- eau fraiche: các sản phẩm được bán dưới dạng "vẩy", "phun sương", "che mùi" và các thuật ngữ không chính xác khác. Nói chung các sản phẩm này chứa 3% hoặc ít hơn các hợp chất thơm và được pha loãng với nước chứ không pha với dầu hoặc rượu.[21]
Có nhiều sự nhầm lẫn về thuật ngữ "cologne" (nghĩa là nước hoa co-lô-nhơ), từ này có ba nghĩa chính. Định nghĩa đầu tiên và lâu đời nhất đề cập đến một loại nước hoa tươi, chiết xuất từ cam quýt, được chưng cất bằng cách sử dụng chiết xuất từ các thành phần cam quýt, hoa và gỗ. Người ta cho rằng chúng được phát triển lần đầu tiên vào đầu thế kỷ 18 ở Köln, Đức nên có tên như vậy. Loại "cologne cổ điển" này mô tả các chế phẩm dành cho giới tính "về cơ bản là hỗn hợp cam quýt và không có thành phần phụ là nước hoa."[22] Ví dụ như 4711 của Mäurer & Wirtz (được tạo ra vào năm 1799) và Eau de Cologne Impériale của Guerlain (1853).
Trong thế kỷ 20, thuật ngữ này mang ý nghĩa thứ hai. Các công ty nước hoa bắt đầu đưa ra những giải thích nhẹ nhàng hơn, ít tập trung hơn về các loại nước hoa hiện có của họ, giúp sản phẩm của họ phổ biến cho nhiều đối tượng khách hàng hơn. Ví dụ, Guerlain đã đưa ra phiên bản Eau de Cologne của nước hoa Shalimar hàng đầu của mình. Trái ngược với các loại nước hoa cologne cổ điển, loại nước hoa cologne hiện đại này nhẹ hơn, loãng hơn so với sản phẩm nồng độ cao hơn là parfum nguyên bản. Phiên bản nước hoa cologne thường có nồng độ nhẹ nhất trong một dòng sản phẩm nước hoa.[22]
Cuối cùng, thuật ngữ "cologne" đã đi vào ngôn ngữ tiếng Anh như một thuật ngữ chung để biểu thị một loại nước hoa của đàn ông bất kể nồng độ của nó. Sản phẩm của đàn ông thực tế mặc về mặt kỹ thuật có thể là eau de toilette nhưng anh ta vẫn có thể nói rằng anh ta "sức nước hoa cologne". Một vấn đề tương tự cũng xẩy ra với thuật ngữ "perfume", có thể được sử dụng theo nghĩa chung để chỉ các loại nước hoa được bán cho phụ nữ cho dù hương thơm có thực sự là extrait hay không.
Nước hoa cologne cổ điển lần đầu tiên xuất hiện ở Châu Âu vào thế kỷ 17. Hương thơm đầu tiên được dán nhãn chiết xuất "parfum" với nồng độ cao các hợp chất thơm là Jicky của Guerlain vào năm 1889. Eau de Toilette xuất hiện cùng với parfum vào khoảng đầu thế kỷ. Thuật ngữ và nồng độ EdP xuất hiện gần đây nhất. Parfum de toilette và EdP bắt đầu xuất hiện từ những năm 1970 và trở nên phổ biến vào những năm 1980.
Thuật ngữ không chính xác
[sửa | sửa mã nguồn]Phạm vi về tỷ lệ phần trăm các hợp chất thơm rộng lớn trong nồng độ nước hoa có nghĩa là thuật ngữ extrait, EdP, EdT và EdC là hoàn toàn không chính xác. Mặc dù EdP thường sẽ có nồng độ cao hơn EdT và EdT có nồng độ cao hơn EdC nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Các xưởng chế nước hoa hoặc nhà sản xuất nước hoa khác nhau chỉ định lượng tinh dầu khác nhau với mỗi loại nước hoa của họ. Do đó, mặc dù nồng độ dầu của nước hoa trong dung dịch pha loãng EdP sẽ cao hơn so với nước hoa EdT cùng loại của một công ty nhưng liều lượng thực tế khác nhau giữa các nhà sản xuất nước hoa. EdT từ nhà sản xuất này có thể có nồng độ các hợp chất thơm cao hơn một EdP từ nhà sản xuất khác.
Hơn nữa, một số loại nước hoa có cùng tên sản phẩm nhưng có nồng độ khác nhau có thể không chỉ khác nhau về độ pha loãng mà các hỗn hợp tinh dầu nước hoa cũng khác nhau hoàn toàn. Ví dụ, để làm cho phiên bản EdT của nước hoa nhẹ hơn và tươi hơn EdP của nó, dầu EdT có thể được "tinh chỉnh" để chứa nhiều hương đầu hơn một chút hoặc ít hương cuối hơn. Chanel Nº 5 là một ví dụ điển hình: nồng độ parfum, EdP, EdT và EdC hiện đã ngừng sản xuất của nó trên thực tế là các thành phần khác nhau (parfum có từ năm 1921, trong khi EdP không được phát triển cho đến những năm 1980). Trong một số trường hợp, những từ như extrême, intense hoặc concentrée có thể biểu thị nồng độ hương thơm cao hơn thực sự là những loại nước hoa hoàn toàn khác nhau nhưng có một sự hoà quyện hương nước hoa tương tự nhau. Một ví dụ về điều này là Pour Monsieur và Pour Monsieur Concentrée của Chanel.
Trong lịch sử, nước hoa của phụ nữ có xu hướng có hàm lượng hợp chất thơm cao hơn nước hoa của nam giới. Nước hoa dành cho nam giới thường được bán dưới dạng EdT hoặc EdC, hiếm khi là EdP hoặc chiết xuất từ nước hoa nguyên chất. Điều này đang thay đổi trong thế giới nước hoa hiện đại, đặc biệt là khi nước hoa ngày càng dùng được cho cả hai giới. Nước hoa dành cho phụ nữ trước đây thường phổ biến ở mọi mức độ nồng độ nhưng ngày nay chủ yếu là các nồng độ parfum, EdP và EdT.
Các loại dung môi
[sửa | sửa mã nguồn]Dầu nước hoa thường được pha loãng với một dung môi mặc dù điều này không phải lúc nào cũng đúng như vậy và sự cần thiết của nó còn bị tranh cãi. Cho đến nay, dung môi phổ biến nhất để pha loãng tinh dầu nước hoa là rượu, thường là hỗn hợp của etanol và nước hoặc cồn tinh cất. Dầu nước hoa cũng có thể được pha loãng bằng các loại dầu có mùi trung tính như dầu dừa phân đoạn hoặc sáp lỏng như dầu Jojoba.
Sử dụng
[sửa | sửa mã nguồn]Thoạt đầu nước hoa chỉ là sản phẩm dành riêng cho phái đẹp, dành riêng cho những quý bà quyền quý bởi tự nó toát lên sự sang trọng, quyến rũ và gợi cảm. Còn ngày nay, nước hoa đã trở nên quen thuộc với mọi người, mọi lứa tuổi. Đã chấm dứt những tư tưởng nước hoa không dành cho nam giới và chỉ dành cho phái đẹp cho giới giàu sang quyền quý.
Mỗi sản phẩm nước hoa có mục đích sử dụng và đối tượng khách hàng riêng biệt như: sử dụng trong các hoạt động thể thao, trong các bữa tiệc, trong dã ngoại hay tiệc ngoài trời...Với các đối tượng được phân loại theo độ tuổi, phong cách, giới tính, nghề nghiệp.
Cách sử dụng truyền thống là bôi (xức) lên một số vị trí nhất định của cơ thể, và là cách sử dụng hiệu quả nhất. Việc xức nước hoa lên quần, áo hay các đồ dùng thật sự chỉ là một sự lãng phí. Cổ tay, phía sau tai, dưới cổ là những vị trí thường được dùng, nguyên tắc là không dùng nước hoa với những vùng da mỏng (như mặt), các vùng da tiết mồ hôi nhiều (như nách), các vết thương hở, mẩn ngứa.
Việc sử dụng nước hoa nguyên chất thông thường (parfum extrait) trong các nền văn hóa phương Tây là ở các điểm mạch như sau tai, gáy và mặt trong của cổ tay, khuỷu tay và đầu gối, nhờ đó, điểm mạch sẽ làm ấm nước hoa và tỏa hương thơm liên tục. Theo chuyên gia nước hoa Sophia Grojsman, phía sau đầu gối là điểm lý tưởng để thoa nước hoa để mùi hương có thể bay lên.[24] Ngành công nghiệp nước hoa hiện đại khuyến khích phân lớp hương thơm để nó được giải phóng với các cường độ khác nhau tùy thuộc vào thời điểm trong ngày. Nên dùng các sản phẩm có mùi thơm nhẹ như dầu tắm, sữa tắm, sữa dưỡng thể vào buổi sáng; eau de toilette được gợi ý dùng cho buổi chiều và nước hoa thoa lên các điểm mạch vào buổi tối.[25] Hương thơm nước hoa Cologne được giải phóng nhanh, kéo dài khoảng 2 giờ. Eau de toilette kéo dài từ 2 đến 4 giờ trong khi nước hoa có thể kéo dài đến 6 giờ.[26]
Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến cách hương thơm tương tác với tâm sinh lý của người sử dụng và ảnh hưởng đến cảm nhận về hương thơm. Chế độ ăn uống là một yếu tố vì ăn thức ăn cay và béo có thể làm tăng cường độ của mùi thơm.[27] Việc sử dụng thuốc cũng có thể ảnh hưởng đến đặc tính của hương thơm.[27] Độ khô tương đối của da người sử dụng là rất quan trọng vì da khô sẽ không giữ được mùi thơm lâu như da tiết nhiều dầu.[26]
Mô tả nước hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Các công thức chính xác của nước hoa thương mại được giữ bí mật. Ngay cả khi chúng được công bố rộng rãi thì chúng sẽ bị chi phối bởi các thành phần và chất tạo mùi phức tạp đến mức chẳng cần thiết để hướng dẫn cho người tiêu dùng nói chung về trải nghiệm của một mùi hương. Tuy nhiên, những người sành nước hoa có thể trở nên cực kỳ khéo léo trong việc xác định các thành phần và nguồn gốc của mùi hương theo cách giống như các chuyên gia rượu vang.[28]
Cách thực tế nhất để bắt đầu mô tả một loại nước hoa là dựa theo các yếu tố trong nốt hương của mùi hương hoặc "họ" của nó, tất cả đều ảnh hưởng đến ấn tượng tổng thể về một loại nước hoa từ lần thoa đầu tiên đến gợi ý cuối cùng của mùi hương.[29][30]
Dấu vết của mùi hương do một người xức nước hoa để lại được gọi là sillage trong từ tiếng Pháp có nghĩa là "lằn tàu", giống như dấu vết do một chiếc thuyền rẽ nước để lại.
Nốt hương
[sửa | sửa mã nguồn]Nước hoa được miêu tả trong một phép ẩn dụ âm nhạc là có ba bộ nốt, tạo nên mùi hương hài hòa. Các nốt mở ra theo thời gian với ấn tượng ngay lập tức của nốt đầu dẫn đến nốt giữa sâu hơn và nốt cuối dần xuất hiện ở giai đoạn cuối. Những nốt này được tạo ra một cách cẩn thận dựa trên kiến thức về quá trình bay hơi của nước hoa.
- Nốt hương đầu (top notes, head notes): mùi hương bật ra ngay lập tức (vài giây sau khi xịt), tạo ấn tượng quan trọng đầu tiên cho người sử dụng và do đó rất quan trọng trong việc bán nước hoa. Chứa những mùi nhẹ, dễ bay hơi như mùi trái cây, mùi hoa. Tuy nhiên tùy từng dòng nước hoa khác nhau có những chai nước hoa nốt hương đầu lại rất cá tính và mạnh mẽ và giảm dần dần về nốt hương cuối.[31] Ví dụ về hương đầu bao gồm bạc hà, hoa oải hương và rau mùi.
- Nốt hương giữa (middle notes, heart notes): được ví như "trái tim" của một loại nước hoa. Nốt hương này tỏa sau khoảng 15 phút (sau khi nốt hương đầu tiêu tán), tạo mùi "đặc trưng" cho nước hoa và "che đậy" mùi hương khá gắt không mấy dễ chịu của nốt hương cuối (tuy nhiên sẽ trở nên dễ chịu hơn theo thời gian), lưu mùi khá lâu. Chứa mùi hương chính của lọ nước hoa, thường là mùi nước biển, gỗ đàn hương và hoa nhài.
- Nốt hương cuối (base note): xuất hiện hòa trộn với nốt hương giữa khi nó gần tiêu hết. Nốt hương cuối kết hợp với nốt hương giữa trở thành chủ đề chính của lọ nước hoa. Nốt hương cuối đem lại cảm giác trầm lắng và đậm đặc, lưu mùi rất lâu và mạnh, thường không thể cảm nhận được trong 30 phút đầu sau khi sử dụng. chứa mùi của gỗ, thuốc lá, hổ phách, xạ hương và nhựa thông...
Nốt hương đầu và giữa chịu ảnh hưởng của nốt hương cuối. Cũng như vậy, mùi hương của nốt cuối có thể bị bẻ cong khi kết hợp với nốt hương giữa.
Các nhà sản xuất thường ghi chú những nguyên liệu họ sử dụng trong các nốt hương cũng như thời gian lưu hương theo từng bậc (ở điều kiện chuẩn thí nghiệm của họ).
Ví dụ về nốt hương
- Coco Mademoiselle:
- Nốt hương đầu: bergamot orange, mandarin (quýt), Tunisian curacao (rượu vỏ cam).
- Nốt hương giữa: morning rose, Italian jasmine, ylang-ylang, mimosa, florentine iris.
- Nốt hương cuối: Indonesian patchouli, Haitien vetiver, Bourbon vanilla, white musk, opoponax, tonka bean.
Các họ mùi
[sửa | sửa mã nguồn]Nhóm các loại nước hoa không bao giờ có thể hoàn toàn khách quan hoặc dứt khoát được. Có nhiều loại hương khác nhau được hợp thành ở mỗi họ. Ngay cả một loại nước hoa được cho là "Single Floral (từ một loài hoa)" cũng sẽ có các sắc thái nhẹ của các loại hương thơm khác. Hầu như không có bất kỳ loại nước hoa đơn nhất nào thực sự chỉ bao gồm một chất thơm duy nhất.
Phân loại họ mùi là một nơi khởi đầu để mô tả một loại nước hoa nhưng không hoàn toàn mô tả hết đặc điểm của nó.
Truyền thống
[sửa | sửa mã nguồn]Các danh mục truyền thống xuất hiện vào khoảng năm 1900:
- Single Floral: Hương thơm chủ đạo bởi một loài hoa cụ thể; trong tiếng Pháp được gọi là soliflore. Ví dụ: Sa Majeste La Rose của Serge Lutens.)
- Floral Bouquet: Là sự kết hợp của một số hương hoa. Ví dụ: Quelques Fleurs của Houbigant, Joy của Jean Patou.
- Amber hoặc "Oriental": Loại lớn có mùi hương ngọt ngào, hơi động vật của long diên hương hoặc labdanum, thường được kết hợp với vani, đậu tonka, hoa và gỗ. Có thể được tăng cường bởi các loại dầu hoa và nhựa hương, gợi lên hình ảnh "Phương Đông" thời Victoria. Ví dụ truyền thống: Shalimar của Guerlain, Opium của Yves Saint Laurent, Mademoiselle của Chanel Coco.[32]
- Hương gỗ: Nước hoa chủ yếu là mùi hương gỗ, điển hình là gỗ trầm hương, gỗ đàn hương, gỗ tuyết tùng và cỏ hương bài. Cây hoắc hương với mùi Long não thường được tìm thấy trong các loại nước hoa này. Ví dụ truyền thống: Maderas De Oriente của Myrurgia, Bois des Îles của Chanel. Hiện đại: Rumba của Balenciaga.
- Da thuộc: Một họ nước hoa có mật ong, thuốc lá, gỗ và hắc ín gỗ ở hương giữa hoặc hương cuối và mùi hương ám chỉ da thuộc. Ví dụ truyền thống: Bandit của Robert Piguet, Jolie Madame của Pierre Balmain.
- Chypre (IPA: [ʃipʁ]): Có nghĩa là Síp trong tiếng Pháp, nó bao gồm các loại hương được tạo thành từ cam bergamot, rêu sồi và labdanum. Được đặt theo tên của Chypre của François Coty (1917). Ví dụ hiện đại: Mitsouko của Guerlain.
- Fougère (IPA: [fu.ʒɛʁ]): Có nghĩa là cây dương xỉ trong tiếng Pháp, được xây dựng dựa trên hoa oải hương, coumarin và rêu sồi với hương thơm sắc nét của cây cỏ và gỗ. Được đặt tên cho Fougère Royale của Houbigant, nhiều loại nước hoa dành cho nam giới thuộc họ này. Ví dụ hiện đại: Brut của Fabergé, Drakkar Noir của Guy Laroche, Douro của Penhaligon's.
Hiện đại
[sửa | sửa mã nguồn]Kể từ năm 1945, các danh mục mới đã xuất hiện để mô tả mùi hương hiện đại, do những tiến bộ lớn trong công nghệ thiết kế và tổng hợp hợp chất, cũng như sự phát triển tự nhiên của phong cách và thị hiếu:
- Bright Floral: Kết hợp các loại truyền thống của Single Floral & Floral Bouquet. Ví dụ: Beautiful của Estée Lauder.
- Green: Giải thích nhẹ nhàng hơn, hiện đại hơn về loại Chypre, với cỏ cắt rõ rệt, lá xanh nghiền nát và mùi hương giống dưa chuột. Ví dụ: Aliage của Estée Lauder, Eau de Campagne của Sisley, Eternity của Calvin Klein.
- Aquatic, Oceanic, Ozonic: Loại mới nhất, xuất hiện lần đầu vào năm 1988 là Cool Water của Davidoff (1988), Dune của Christian Dior (1991). Một mùi tươi mát gợi nhớ đến đại dương, dẫn đến nhiều loại nước hoa lưỡng tính. Nói chung chứa calone, một chất tổng hợp được phát hiện vào năm 1966 hoặc các chất tổng hợp gần đây hơn. Cũng được sử dụng để làm nổi bật các loại nước hoa hương hoa, hương vị phương Đông và hương gỗ.
- Citrus: Một họ hương lâu đời mà cho đến gần đây chủ yếu là eau de colognes "làm tươi" do tính dễ bay hơi của hương cam quýt. Việc phát triển các hợp chất tạo mùi thơm mới hơn đã cho phép tạo ra các loại nước hoa hương cam quýt bền bỉ hơn. Ví dụ: Quercus của Penhaligon's.
- Fruity: Các loại trái cây khác ngoài cam quýt như đào, cassis (nho đen), xoài, chanh dây và các loại khác. Ví dụ: Botrytis của Ginestet.
- Gourmand (tiếng Pháp: [ ɡuʁmɑ̃ ]): Mùi hương "có thể ăn được" hoặc "giống như món tráng miệng" thường chứa vani, đậu tonka và coumarin cũng như các thành phần tổng hợp được thiết kế giống với hương vị thực phẩm. Ví dụ: Angel của Thierry Mugler.
Bánh xe hương thơm
[sửa | sửa mã nguồn]Phương pháp phân loại mới này được sử dụng rộng rãi trong ngành bán lẻ và ngành công nghiệp nước hoa, được tạo ra vào năm 1983 bởi nhà tư vấn nước hoa Michael Edwards. Lược đồ mới đơn giản hóa việc phân loại và đặt tên cũng như hiển thị mối quan hệ giữa các cấp độ.[33]
Năm họ chính là Floral (Hoa), Oriental (phương Đông), Woody (Gỗ), Aromatic Fougère (Fougère thơm) và Fresh (Tươi), bốn họ đầu tiên từ thuật ngữ cổ điển và họ cuối cùng thuộc loại đại dương hiện đại. Mỗi loại được chia thành các nhóm con và sắp xếp xung quanh một bánh xe. Theo cách chia này, Chanel No.5, theo truyền thống được phân loại là hương hoa aldehyde, được xếp vào nhóm phụ Soft Floral, mùi hương hổ phách nằm trong nhóm Oriental. Nước hoa Chypre mơ hồ hơn, có mối liên hệ với cả hai họ Phương Đông và Gỗ. Chẳng hạn như Mitsouko của Guerlain thuộc Mossy Woods nhưng Rouge của Hermès, một loại chypre nhiều hoa hơn thuộc Floral Oriental.
Nguồn hương liệu
[sửa | sửa mã nguồn]Thực vật
[sửa | sửa mã nguồn]Thực vật từ lâu đã được sử dụng trong nước hoa như một nguồn cung cấp tinh dầu và các hợp chất tạo mùi thơm. Những chất thơm này thường là chất chuyển hóa thứ cấp do thực vật tạo ra để bảo vệ chống lại động vật ăn thực vật, nhiễm trùng cũng như thu hút các loài thụ phấn. Cho đến nay, thực vật là nguồn cung cấp hợp chất thơm lớn nhất được sử dụng trong nước hoa. Nguồn của các hợp chất này có thể được lấy từ các bộ phận khác nhau của cây. Một loại cây có thể cung cấp nhiều hơn một nguồn chất thơm, ví dụ như các phần thân trên và hạt của rau mùi có mùi khác biệt đáng kể. Lá, hoa và vỏ quả cam là những nguồn tương ứng của petitgrain, tinh dầu hoa cam và dầu cam.
- Vỏ cây: Vỏ cây thường được sử dụng bao gồm quế và cascarilla. Dầu thơm trong vỏ rễ de vàng cũng được sử dụng trực tiếp hoặc tinh chế cho thành phần chính của nó, safrole, được sử dụng trong quá trình tổng hợp các hợp chất thơm khác.
- Hoa và hoa cây ăn quả: Chắc chắn là nguồn hương liệu nước hoa lớn nhất và phổ biến nhất. Bao gồm hoa của một số loài hoa hồng và hoa nhài cũng như hoa mộc, hoa sứ, Trinh nữ, hoa huệ, hoa thủy tiên, phong lữ thơm, Cassie, vông vang cũng như hoa của cây họ cam quýt và Hoàng lan. Mặc dù theo truyền thống không được coi là một loài hoa nhưng nụ hoa chưa nở của cây đinh hương cũng thường được sử dụng. Hầu hết hoa phong lan không được sử dụng để sản xuất tinh dầu trừ vani, một loài phong lan, phải được thụ phấn trước và tạo thành vỏ hạt trước khi sử dụng trong nước hoa.
- Trái cây: Trái cây tươi như táo tây, dâu tây, anh đào hiếm khi mang lại mùi như mong đợi khi chiết xuất; nếu các hương thơm của các loại trái này được tìm thấy trong một loại nước hoa, nhiều khả năng chúng là hóa chất tổng hợp. Các trường hợp ngoại lệ đáng chú ý bao gồm lá cây nho đen, cây màng tang, vani và quả bách xù. Các loại trái cây được sử dụng phổ biến nhất có mùi thơm từ vỏ; chúng bao gồm cam quýt như cam, chanh vàng và chanh. Mặc dù vỏ bưởi chùm vẫn được sử dụng để làm chất thơm, ngày càng có nhiều chất thơm bưởi chùm được tổng hợp nhân tạo vì chất thơm tự nhiên có chứa lưu huỳnh và sản phẩm phân hủy của nó có mùi khá khó chịu.
- Lá và cành: Thường được sử dụng để làm nước hoa là lá oải hương, hoắc hương, xô thơm, hoa tím, hương thảo và lá cam quýt. Đôi khi lá được đánh giá cao vì mùi "xanh" mà chúng mang lại cho nước hoa, ví dụ về điều này bao gồm cỏ khô và lá cà chua.
- Nhựa cây: Có giá trị từ thời cổ đại, nhựa cây đã được sử dụng rộng rãi trong hương liệu và nước hoa. Nhựa thơm và có tính sát trùng cao và nước hoa có chứa nhựa thông đã được nhiều nền văn hóa sử dụng làm thuốc chữa nhiều loại bệnh. Các loại nhựa cây thường được sử dụng trong nước hoa bao gồm labdanum, nhũ hương / olibanum, một dược, balsam Peru, benzoin. Nhựa thông và linh sam là một nguồn tecpen đặc biệt có giá trị được sử dụng trong quá trình tổng hợp hữu cơ của nhiều hợp chất thơm tổng hợp hoặc tự nhiên khác. Một số thứ được gọi là hổ phách và nhựa copal trong nước hoa ngày nay là chất tiết nhựa của cây lá kim hóa thạch.
- Rễ, thân rễ và thân hành: Các bộ phận trên cạn thường được sử dụng trong nước hoa bao gồm thân rễ diên vĩ, rễ cỏ hương bài, các loại thân rễ khác nhau của họ gừng.
- Hạt: Hạt thường được sử dụng bao gồm đậu tonka, hạt cà rốt dại, rau mùi, thì là Ba Tư, hạt ca cao, hạt nhục đậu khấu, Vỏ nhục đậu khấu, bạch đậu khấu và hồi.
- Gỗ: Rất quan trọng trong việc cung cấp hương cuối cho nước hoa, dầu gỗ và các chất chưng cất rất cần thiết trong sản xuất nước hoa. Các loại gỗ thường được sử dụng bao gồm gỗ đàn hương, gỗ hồng, gỗ trầm hương, bạch dương, tuyết tùng, bách xù và thông. Chúng được sử dụng dưới dạng ngâm hoặc dạng chưng cất khô (đã qua tinh lọc).
- Rom terpen. Hương hoa lan
Động vật
[sửa | sửa mã nguồn]- Long diên hương: Các hợp chất béo bị oxy hóa, tiền chất của chúng được cá nhà táng tiết ra và thải ra ngoài. Long diên hương không nên nhầm lẫn với hoàng hổ phách được sử dụng trong đồ trang sức. Bởi vì việc thu hoạch long diên hương không gây hại cho nguồn động vật của nó, nó vẫn là một trong số ít chất tạo mùi thơm động vật hiện nay vẫn còn ít gây tranh cãi.
- Hải ly hương: Lấy từ túi hương của hải ly Bắc Mỹ.
- Cầy hương: Còn được gọi là xạ hương cầy hương, được lấy từ các túi hương cầy hương, loài động vật trong họ Cầy, có họ hàng với cầy mangut. Hiệp hội Bảo vệ Động vật Thế giới đã điều tra được các giống cầy ở châu Phi bị bắt vì mục đích này.[34]
- Đề thố hương: Thường được gọi là "đá Châu Phi", là phân hóa đá của đa man đá.[35]
- Tảng ong: Từ tảng ong của ong mật. Cả sáp ong và mật ong đều có thể được chiết xuất bằng dung môi để tạo ra dịch nguyên chất. Sáp ong được chiết xuất bằng etanol và etanol bay hơi để tạo ra sáp ong nguyên chất.
- Xạ hương: Ban đầu có nguồn gốc từ tuyến (túi hoặc tuyến) nằm giữa bộ phận sinh dục và rốn của hươu xạ đực Himalaya Moschus moschiferus, hiện nay nó chủ yếu được thay thế bằng việc sử dụng xạ hương tổng hợp đôi khi được gọi là "xạ hương trắng".
Các nguồn tự nhiên khác
[sửa | sửa mã nguồn]- Địa y: Địa y thường được sử dụng là rêu sồi và rêu cây thalli.
- Tảo nâu: Sản phẩm chưng cất đôi khi được sử dụng làm tinh dầu trong nước hoa. Một ví dụ về một loại tảo nâu thường được sử dụng là Fucus vesiculosus, thường được gọi là tảo bẹ. Nước hoa tảo nâu tự nhiên hiếm khi được sử dụng do giá thành cao hơn và hiệu lực thấp hơn so với chất tổng hợp.
Nguồn tổng hợp
[sửa | sửa mã nguồn]Nhiều loại nước hoa hiện đại có chứa chất tạo mùi tổng hợp. Chất tổng hợp có thể cung cấp các loại nước hoa không có trong tự nhiên. Ví dụ như Calone, một hợp chất có nguồn gốc tổng hợp, được tạo ra một mùi hương biển kim loại tươi mát được sử dụng rộng rãi trong nước hoa đương đại. Chất thơm tổng hợp thường được sử dụng như một nguồn thay thế của các hợp chất không dễ dàng thu được từ các nguồn tự nhiên. Ví dụ, linalool và coumarin đều là những hợp chất tự nhiên có thể được tổng hợp từ terpene một cách rẻ tiền. Hương hoa lan (điển hình là axit salicylic) thường không thu được trực tiếp từ chính cây mà thay vào đó được tạo ra một cách tổng hợp để phù hợp với các hợp chất thơm có trong các loại hoa lan khác nhau.
Một trong những loại chất thơm tổng hợp được sử dụng phổ biến nhất cho đến nay là xạ hương trắng. Những chất liệu này được tìm thấy trong tất cả các dạng nước hoa thương mại làm nền trung tính cho lớp hương giữa. Những chất xạ hương này được thêm một lượng lớn vào bột giặt để mang lại cho quần áo đã giặt một mùi hương "sạch sẽ" lâu dài.
Phần lớn các chất thơm tổng hợp trên thế giới được tạo ra bởi một số rất ít công ty. Các công ty này bao gồm:
Mỗi công ty trong số này đều đăng kí cấp bằng sáng chế cho một số quy trình sản xuất chất thơm tổng hợp hàng năm.
Đặc điểm
[sửa | sửa mã nguồn]Chất tổng hợp và tự nhiên được sử dụng sẽ cho các đặc trưng mùi khác nhau trong nước hoa
Tự nhiên | Tổng hợp | |
---|---|---|
Sự khác biệt | Mùi hương tự nhiên sẽ khác nhau ở mỗi nhà cung cấp do thời gian và địa điểm thu hoạch, cách chúng được chế biến và phương pháp chiết xuất. Điều này có nghĩa là một loại hoa nào đó được trồng ở Ma-rốc và ở Pháp sẽ có mùi khác nhau ngay cả khi trồng, thu hoạch và chiết xuất mùi hương bằng phương pháp giống nhau. Như vậy, mỗi người làm nước hoa sẽ thích hoa được trồng ở nước này hơn nước khác hoặc phương pháp chiết xuất này hơn phương pháp chiết xuất khác. Tuy nhiên, do thành phần hỗn hợp có mùi hương tự nhiên, các nhà cung cấp vô đạo đức rất dễ làm tạp nhiễm nguyên liệu thực tế bằng cách thay đổi nguồn của nó (thêm hoa nhài Ấn Độ thành hoa nhài Grasse) hoặc thành phần (thêm linalool vào gỗ hồng) để tăng biên lợi nhuận của họ. | Nhất quán hơn nhiều so với chất thơm tự nhiên. Tuy nhiên, sự khác biệt trong tổng hợp hữu cơ có thể dẫn đến sự khác biệt nhỏ về nồng độ tạp chất. Nếu các tạp chất này có ngưỡng mùi (phát hiện) thấp thì sự khác biệt về mùi hương của chất thơm tổng hợp sẽ rất đáng kể. |
Thành phần | Chứa nhiều hợp chất hữu cơ khác nhau, mỗi loại thêm một nốt hương khác nhau vào mùi hương tổng thể. Một số chất có nguồn gốc tự nhiên có lịch sử sử dụng lâu dài nhưng điều này không phải lúc nào cũng được sử dụng như một chỉ số để đánh giá liệu chúng có an toàn hay không. Các hợp chất có thể gây dị ứng hoặc gây ung thư. | Tùy thuộc vào độ tinh khiết, chủ yếu bao gồm một hợp chất hóa học. Đôi khi hỗn hợp bất đối xứng của các đồng phân, chẳng hạn như trong trường hợp Iso E Super.[36] Do thành phần gần như tinh khiết của một hợp chất hóa học, các phân tử tương tự được tìm thấy được pha loãng tự nhiên sẽ có mùi hương và tác dụng khác nhau trên cơ thể nếu sử dụng không pha loãng. |
Tính độc đáo của mùi hương | Gợi nhớ đến nguyên liệu có nguồn gốc của nó, mặc dù quá trình chiết xuất có thể tạo ra một "lớp" mùi khác nhau tùy thuộc vào cách phương pháp chiết xuất làm biến tính các hợp chất tạo mùi. | Tương tự như mùi hương tự nhiên nhưng khác thời điểm. Một số chất tổng hợp cố gắng bắt chước các nốt tự nhiên trong khi những chất khác khám phá toàn bộ phổ mùi hương. Các hợp chất tạo mùi hương mới lạ không có trong tự nhiên thường sẽ có mùi hương độc đáo. |
Mùi hương phức tạp | Hương thơm sâu và phức tạp. Sắc thái mùi hương tinh tế. Được đánh giá cao về thành phần lý tưởng. | Hương thơm tinh khiết và rõ rệt. Thường đơn điệu về bản chất nhưng gợi nhớ đến những mùi hương tự nhiên khác. |
Giá thành | Phụ thuộc vào phương pháp chiết xuất. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng đắt hơn vì giá cả được xác định bởi công lao động và khó khăn trong việc chiết xuất đúng từng đơn vị nguyên liệu tự nhiên, cũng như chất lượng của nó. Thông thường, mối quan hệ giữa tuổi thọ của nước hoa, chi phí và nồng độ tinh dầu dựa theo biểu đồ dưới đây: [37] | Phụ thuộc vào phương pháp tổng hợp. Nói chung rẻ hơn nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chất thơm tổng hợp không nhất thiết phải rẻ hơn chất tự nhiên, một số chất tổng hợp đắt hơn hầu hết các thành phần tự nhiên do các yếu tố khác nhau như đường tổng hợp dài, lượng tiền chất sẵn có thấp và năng suất tổng thể thấp. Tuy nhiên, do ngưỡng mùi thấp, chúng nên được pha loãng khi làm nước hoa. |
Thu thập chất tạo mùi tự nhiên
[sửa | sửa mã nguồn]Trước khi có thể tạo ra nước hoa, trước tiên phải thu được các chất tạo mùi được sử dụng trong các chế phẩm nước hoa khác nhau. Chất tạo mùi tổng hợp được tạo ra thông qua quá trình tổng hợp hữu cơ và được tinh chế. Chất tạo mùi từ các nguồn tự nhiên đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp khác nhau để chiết xuất chất thơm từ nguyên liệu thô. Kết quả của quá trình chiết xuất là tinh dầu, dịch nguyên chất, chất cô đặc hoặc mỡ, tùy thuộc vào lượng sáp trong sản phẩm chiết xuất.[38]
Tất cả các kỹ thuật này sẽ làm biến dạng mùi của các hợp chất thơm thu được từ nguyên liệu thô ở một mức độ nhất định. Điều này là do việc sử dụng nhiệt, dung môi mạnh hoặc qua việc tiếp xúc với oxy trong quá trình chiết xuất sẽ làm biến tính các hợp chất thơm, làm thay đổi đặc tính mùi của chúng hoặc làm cho chúng mất mùi.
- Ngâm/Chiết xuất dung môi: Kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất và quan trọng về mặt kinh tế để chiết xuất chất thơm trong ngành công nghiệp nước hoa hiện đại. Nguyên liệu được ngâm trong dung môi có thể hòa tan các hợp chất thơm mong muốn. Việc ngâm kéo dài từ hàng giờ đến hàng tháng. Các hợp chất thơm nguyên liệu thực vật dạng gỗ và sợi thường được thu nhận theo cách này vì tất cả các chất thơm từ nguồn động vật. Kỹ thuật này cũng có thể được sử dụng để chiết xuất các chất có mùi quá dễ bay hơi để chưng cất hoặc dễ bị biến tính bởi nhiệt. Các dung môi thường được sử dụng để chiết xuất dung môi/ngâm bao gồm etan, hexan và dimetyl ete. Sản phẩm của quá trình này được gọi là "cô đặc".
- Chiết xuất chất lỏng siêu tới hạn: Một kỹ thuật tương đối mới để chiết xuất các hợp chất thơm từ nguyên liệu thô, thường sử dụng [[CO2 siêu tới hạn]]. Do quá trình xử lý nhiệt thấp và dung môi tương đối không hoạt tính được sử dụng trong quá trình chiết xuất, các hợp chất thơm thu được thường gần giống với mùi ban đầu của nguyên liệu thô.
- Chiết xuất etanol: Một loại chiết xuất dung môi được sử dụng để chiết xuất các hợp chất thơm trực tiếp từ các nguyên liệu thô khô cũng như các nguyên liệu hợp chất dầu không tinh khiết do chiết xuất dung môi hoặc nước ép. Chiết xuất etanol từ nguyên liệu thực vật tươi chứa một lượng lớn nước mà sẽ được chiết xuất thành etanol.
- Chưng cất: Một kỹ thuật phổ biến để thu được các hợp chất thơm từ thực vật, chẳng hạn như hoa cam và hoa hồng. Nguyên liệu thô được làm nóng và các hợp chất thơm được thu lại thông qua quá trình ngưng tụ hơi nước cất.
- Chưng cất bằng hơi nước: Hơi từ nước sôi đi qua nguyên liệu thô giúp loại bỏ các hợp chất thơm dễ bay hơi của chúng. Nước ngưng tụ từ quá trình chưng cất được lắng trong bình Florentine. Điều này cho phép tách dầu thơm ra khỏi nước dễ dàng. Nước thu được từ chất ngưng tụ, giữ lại một số hợp chất thơm và dầu từ nguyên liệu thô được gọi là hydrosol và đôi khi được bán. Điều này được sử dụng phổ biến nhất cho các nguyên liệu thực vật tươi như hoa, lá và thân.
- Chưng cất khô / phá hủy: Nguyên liệu thô được làm nóng trực tiếp trong môi trường tĩnh không có dung môi mang như nước. Các hợp chất thơm được giải phóng khỏi nguyên liệu thô bởi nhiệt cao thường trải qua quá trình chưng khô, dẫn đến việc hình thành các hợp chất thơm khác nhau và do đó có các mùi thơm khác nhau. Phương pháp này được sử dụng để thu được các hợp chất có mùi thơm từ hổ phách hóa thạch và gỗ thơm, khi muốn có mùi "cháy" hoặc "nướng" có chủ đích.
- Phân đoạn: Thông qua việc sử dụng cột cất phân đoạn, các phân đoạn khác nhau được chưng cất từ một nguyên liệu có thể được loại trừ một cách chọn lọc để thay đổi mùi hương của sản phẩm cuối cùng. Mặc dù sản phẩm đắt tiền hơn, điều này đôi khi được thực hiện để loại bỏ mùi hương khó chịu hoặc không mong muốn của nguyên liệu và cho phép nhà chế tạo nước hoa kiểm soát nhiều hơn quá trình thành phần của chúng.
- Vắt: Nguyên liệu được ép hoặc nén và thu được tinh dầu. Trong tất cả các nguyên liệu thô, chỉ có loại dầu thơm từ vỏ của các loại quả thuộc họ cam quýt được chiết xuất theo cách này vì dầu có mặt với số lượng đủ lớn để làm cho phương pháp chiết xuất này khả thi về mặt kinh tế.
- Hút hương bằng sáp: Hấp thụ nguyên liệu thơm thành chất béo rắn hoặc sáp và sau đó chiết xuất dầu thơm bằng etanol. Chiết xuất bằng phương pháp hút hương bằng sáp thường được sử dụng khi không thể chưng cất vì một số hợp chất thơm bị biến tính do nhiệt độ cao. Kỹ thuật này không được sử dụng phổ biến trong ngành công nghiệp hiện đại do chi phí cao và đã có các phương pháp chiết xuất hiệu quả và hiệu suất cao hơn.[29]
Các loại dịch chiết thơm
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù công chúng thường gọi các loại dịch chiết thơm bằng thuật ngữ chung là "tinh dầu" nhưng trong ngành nước hoa, người ta sử dụng một thuật ngữ cụ thể hơn để mô tả nguồn gốc, độ tinh khiết và kỹ thuật được sử dụng để thu được một dịch chiết thơm cụ thể. Trong số các chất chiết xuất này, chỉ có dịch nguyên chất, tinh dầu và cồn thuốc được sử dụng trực tiếp để tạo ra nước hoa.
- Dịch nguyên chất: Các vật liệu có mùi thơm được tinh chế từ pomat hoặc chất cô đặc bằng cách ngâm chúng trong etanol. Bằng cách sử dụng một hợp chất hơi ưa nước như etanol, hầu hết các hợp chất thơm từ nguyên liệu nguồn sáp có thể được chiết xuất mà không làm tan bất kỳ phân tử sáp không thơm nào. Dịch nguyên chất thường ở dạng lỏng nhờn.
- Chất cô đặc: Vật liệu thơm đã được chiết xuất từ nguyên liệu thô thông qua quá trình chiết xuất dung môi bằng cách sử dụng hydrocarbon dễ bay hơi. Chất cô đặc thường chứa một lượng lớn sáp do dung môi dễ hòa tan các hợp chất kỵ nước khác nhau. Vì chất cô đặc như vậy thường được tinh chế thêm thông qua chưng cất hoặc chiết xuất dung môi bằng etanol. Chất cô đặc thường là chất rắn dạng sáp hoặc nhựa hoặc chất lỏng nhờn đặc.
- Tinh dầu: Các nguyên liệu có mùi thơm được chiết xuất trực tiếp từ nguyên liệu gốc thông qua quá trình chưng cất hoặc ép và thu được ở dạng chất dầu lỏng. Dầu chiết xuất bằng cách ép đôi khi được gọi là dầu ép.
- Pomat: Một khối chất béo rắn có mùi thơm được tạo ra từ quá trình hấp thụ hương bằng sáp, trong đó các hợp chất có mùi trong nguyên liệu thô được hấp thụ vào mỡ động vật. Pomat ở dạng chất rắn nhờn và dính.
- Cồn thuốc: Nguyên liệu thơm được sản xuất bằng cách thấm và ngâm trực tiếp nguyên liệu trong etanol. Các cồn thuốc thường là chất lỏng loãng.[29]
Các sản phẩm từ các phương pháp chiết xuất khác nhau được biết đến dưới các tên khác nhau mặc dù nguyên liệu ban đầu của chúng giống nhau. Ví dụ, hoa cam từ cam đắng đã trải qua quá trình chiết xuất dung môi tạo ra "dịch hoa cam nguyên chất" nhưng hoa đã được chưng cất bằng hơi nước được gọi là "dầu hoa cam".
Sáng tạo nước hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Sáng tạo nước hoa là một phần quan trọng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, từ các ngành hàng xa xỉ, các ngành dịch vụ thực phẩm đến các nhà sản xuất hóa chất gia dụng. Mục đích của việc sử dụng nước hoa hoặc các chế phẩm tạo mùi thơm trong các ngành công nghiệp này là tác động đến khách hàng thông qua khứu giác và lôi kéo họ mua nước hoa hoặc sản phẩm có mùi thơm. Vì vậy, người ta quan tâm đáng kể đến việc sản xuất một công thức nước hoa mà mọi người sẽ thấy hài lòng về mặt thẩm mỹ.
Nhà pha chế nước hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Công việc sáng tạo nước hoa được giao cho một chuyên gia về thành phần nước hoa hoặc được biết đến trong ngành công nghiệp nước hoa với cái tên nhà pha chế nước hoa (perfumer). Đôi khi chúng cũng được gọi một cách trìu mến là "Nez" (tiếng Pháp có nghĩa là mũi) do khứu giác tốt và kỹ năng phân loại mùi.
Sáng tạo một loại nước hoa thường bắt đầu bằng một bản chỉ dẫn của người thuê nhà sáng tạo nước hoa hoặc một khách hàng bên ngoài. Khách hàng của nhà pha chế nước hoa hoặc người thuê họ thường là các hãng thời trang hoặc các tập đoàn lớn thuộc nhiều ngành khác nhau. [39] Sau đó, nhà pha chế nước hoa sẽ trải qua quá trình pha trộn nhiều hỗn hợp nước hoa và bán công thức cho khách hàng, thường là có những thay đổi về thành phần của nước hoa. Sáng tạo nước hoa sau đó sẽ được sử dụng để làm nổi bật sản phẩm khác như một hương thơm chức năng (dầu gội, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, nội thất xe hơi, v.v.) hoặc được tiếp thị và bán trực tiếp cho công chúng như một hương thơm hảo hạng.[28]
Kỹ thuật
[sửa | sửa mã nguồn]Mặc dù không có một kỹ thuật "chính xác" duy nhất để tạo ra một loại nước hoa nhưng có những hướng dẫn chung về cách một loại nước hoa có thể được tạo ra từ một khái niệm. Mặc dù nhiều thành phần không góp phần tạo nên mùi nước hoa nhưng nhiều loại nước hoa đều có chất tạo màu và chất chống oxy hóa để cải thiện hả năng tiếp thị và thời hạn sử dụng của nước hoa.
Kết cấu cơ bản
[sửa | sửa mã nguồn]Dầu nước hoa thường chứa hàng chục đến hàng trăm thành phần và chúng thường được đưa vào trong nước hoa với vai trò cụ thể riêng. Những thành phần này có thể được nhóm lại thành bốn nhóm:
- Mùi hương chính (Heart): Có thể bao gồm một hoặc một vài thành phần chính cho một khái niệm nhất định, chẳng hạn như "hoa hồng". Ngoài ra, nhiều thành phần có thể được sử dụng cùng nhau để tạo ra một mùi hương chính "trừu tượng" không giống với một thành phần tự nhiên. Ví dụ, hương hoa nhài và hoa hồng thường được pha trộn cho các loại nước hoa trừu tượng. Hương Cola là một ví dụ điển hình về mùi hương sơ cấp trừu tượng.
- Các chất điều chỉnh: Những thành phần này làm thay đổi mùi hương chính để tạo cho nước hoa một đặc trưng mong muốn nhất định: ví dụ, các este trái cây có thể được sử dụng cùng một loại hoa chính để tạo ra hương hoa trái cây; hương thơm calone và cam quýt có thể được thêm vào để tạo ra hương hoa "tươi mát hơn". Có thể coi mùi hương anh đào trong cola anh đào là một chất điều chỉnh.
- Chất trộn: Một nhóm lớn các thành phần giúp làm mịn quá trình chuyển đổi của nước hoa giữa các "lớp" hoặc nền khác nhau. Bản thân chúng có thể được sử dụng như một thành phần chính của mùi hương chính. Các thành phần pha trộn phổ biến là linalool và hydroxycitronellal.
- Chất cố định: Được sử dụng để hỗ trợ mùi hương chính bằng cách củng cố nó. Nhiều loại nhựa, mùi hương gỗ và hổ phách được sử dụng làm chất cố định.
Hương đầu, hương giữa và hương cuối của nước hoa có thể có mùi hương chính và thành phần hỗ trợ riêng biệt. Dầu thơm của nước hoa sau đó được pha trộn với rượu etylic và nước, ủ trong bể trong vài tuần và được lọc qua thiết bị xử lý để các thành phần nước hoa trong hỗn hợp ổn định và loại bỏ toàn bo cặn và các hạt lơ lửng trước khi dung dịch được rót vào những chai nước hoa.[39]
Nền hương
[sửa | sửa mã nguồn]Thay vì tạo ra một loại nước hoa "từ đâu chí cuối", nhiều loại nước hoa và nước hoa hiện đại được sản xuất bằng cách sử dụng nền hương hoặc đơn giản là nền. Mỗi lớp hương về cơ bản là nước hoa mô-đun được pha trộn từ tinh dầu và hóa chất thơm, được pha chế với một khái niệm đơn giản như "cỏ mới cắt" hoặc "táo chua ngon ngọt". Nhiều dòng Aqua Allegoria của Guerlain với khái niệm hương thơm đơn giản của họ là những ví dụ điển hình về nền hương nước hoa.
Nỗ lực được sử dụng trong việc phát triển nền hương của các công ty nước hoa hoặc các nhà sản xuất nước hoa cá nhân có thể tương đương với nỗ lực của một loại nước hoa bán trên thị trường vì chúng hữu ích ở chỗ có thể tái sử dụng. Ngoài khả năng tái sử dụng, lợi ích của việc sử dụng nền hương là rất nhiều:
- Các thành phần có mùi hương "khó chịu" hoặc "quá nồng" sẽ được điều chỉnh thành lớp nền hương pha trộn có thể dễ dàng kết hợp thành nước hoa hơn
- Nền hương có thể là những mùi hương tương đương của một thứ nhất định tốt hơn là chiết xuất từ chính thứ đó. Ví dụ, một lớp nền được tạo ra để thể hiện mùi hương cho "hoa hồng đẫm sương tươi" có thể gần đúng khái niệm mùi hương của hoa hồng sau mưa hơn là tinh dầu hoa hồng đơn thuần. Những loài hoa như hoa dành dành hoặc dạ lan hương không thể chiết xuất được mùi hương, sẽ được tạo nền hương từ dữ liệu thu được từ công nghệ headspace.
- Một nhà pha chế nước hoa có thể nhanh chóng đưa ra một khái niệm ngắn gọn bằng cách kết hợp nhiều nền hương, sau đó trình bày nó để lấy phản hồi. Bạn có thể làm mịn "các góc cạnh" của nước hoa sau khi có phản ứng tích cực.
Kỹ thuật đảo ngược
[sửa | sửa mã nguồn]Tạo nước hoa thông qua kỹ thuật đảo ngược với các kỹ thuật phân tích như sắc kí chất khí-trắc khối phổ (GC / MS) có thể tiết lộ công thức "chung" cho bất kỳ loại nước hoa cụ thể nào. Khó khăn trong phân tích GC/MS nảy sinh do sự phức tạp của các thành phần của nước hoa. Điều này đặc biệt là do sự hiện diện của tinh dầu tự nhiên và các thành phần khác trong một hỗn hợp hóa học phức tạp. Tuy nhiên, "bất kỳ ai được trang bị thiết bị GC/MS tốt và có kinh nghiệm sử dụng thiết bị này ngày nay đều có thể tìm hiểu rất nhiều về công thức của bất kỳ loại nước hoa nào... khách hàng và đối thủ cạnh tranh có thể phân tích chính xác hầu hết các loại nước hoa."[40]
Nước hoa cổ hoặc được bảo quản kém trong quá trình phân tích này cũng có thể khó khăn do có nhiều sản phẩm phụ và tạp chất xuống cấp có thể do sự phân hủy của các hợp chất có mùi. Các thành phần và hợp chất thường có thể được loại trừ hoặc xác định bằng cách sử dụng máy ngưởi sắc ký chất khí (GC), cho phép xác định từng thành phần hóa học thông qua các đặc tính vật lý và mùi hương của chúng. Kỹ thuật đảo ngược các loại nước hoa bán chạy nhất trên thị trường là một thực tế rất phổ biến trong ngành công nghiệp nước hoa do sự đơn giản tương đối của việc vận hành thiết bị GC, áp lực sản xuất nước hoa có thể bán được trên thị trường và lợi nhuận cao của thị trường nước hoa.[39]
Bản quyền
[sửa | sửa mã nguồn]Không rõ liệu nước hoa có đủ điều kiện là đối tượng bản quyền thích hợp theo Đạo luật Bản quyền của Hoa Kỳ hay không. Vấn đề vẫn chưa được giải quyết bởi bất kỳ tòa án Hoa Kỳ. Mùi hương của nước hoa không đủ điều kiện để được bảo hộ thương hiệu: mùi hương đóng vai trò là thành phần chức năng của sản phẩm.[41]
Năm 2006, Tòa án tối cao Hà Lan đã cấp bảo hộ bản quyền cho nước hoa Tresor của Lancôme (Lancôme v. Kecofa). Tòa án tối cao Pháp đã hai lần đưa ra quan điểm rằng nước hoa thiếu tính sáng tạo để cấu thành các cách diễn đạt có bản quyền (Bsiri-Barbir v. Haarman & Reimer, 2006; Beaute Prestige International v. Senteur Mazal, 2008).[41]
- "Mục đích chức năng" của nước hoa có thể được bảo hộ bằng bằng sáng chế kỹ thuật (một bằng sáng chế kéo dài 15 năm) vẫn còn là một vấn đề. Rõ ràng làBản mẫu:According to whom "Novaya Zarya" của Nga dán nhãn nước hoa của họ là "kem dưỡng da hợp vệ sinh" vì một lý do tương tự.
- Một ví dụ ngược lại: Nước hoa Shipr chypre và Troinoi có tuổi đời hàng thế kỷ của NovZar đang được sản xuất bởi các công ty khác ở Nga (với chất lượng không tốt và giá bán lẻ thấp đến "dưới $1/chai"). Những cách làm như vậy đã làm tổn hại danh tiếng của "nước hoa thời Xô Viết" đến mức Shipr được xem[bởi ai?] như một chất chống côn trùng hoặc chất tẩy đánh bóng.
- Đôi khi, một loại nước hoa nhái sẽ sử dụng tên đã thay đổi của loại nước hoa gốc (ví dụ: "phiên bản làm lại" của nước hoa Freya-by-Oriflame là "Freyya").
Nước hoa được đánh số, "chất tương tự"
[sửa | sửa mã nguồn]Một ví dụ về việc né tránh luật nhãn hiệu được biết đến ở các quốc gia cũ thuộc Liên Xô là "номерная парфюмерия" (nghĩa đen là "nước hoa được đánh số"): thay vì làm giả đơn thuần hoặc tái thiết kế và tái tạo bản quyền một cách tinh vi cho chai và bao bì của một loại nước hoa nổi tiếng, "công ty đánh số" có thiết bị nước hoa sẽ sử dụng chai của riêng họ chứ không sao chép nguyên xi, được dán nhãn là "hương thơm hướng [nước hoa nổi tiếng]" hoặc là "phiên bản" của một số loại nước hoa có thương hiệu.
- Những loại nước hoa như vậy thường có số ba chữ số làm tên đăng ký chính thức được gắn vào chai.
- Khi nói đến chất đẩy, "nước hoa được đánh số" thường có gốc cồn [hầu như] không có tính ổn định (có thể tạo ra "mùi hôi gốc cồn" mạnh, làm thay đổi mùi nước hoa thành hiện tượng "mùi rẻ tiền").
- Để tránh điều này, một số "nước hoa được đánh số" có thể được tạo ra với (di) propylenglicol gốc, được dán nhãn "dầu nước hoa" (được bán trong chai nhựa 50ml và dạng "lăn" nhỏ, không sử dụng được trong chai xịt) (dù sao cũng không bị ảnh hưởng bởi vấn đề "mùi rẻ tiền"). Một số công ty đưa ra hầu hết các "nước hoa được đánh số" của riêng họ với cả hai loại.
- Phần nghi vấn của việc đặt tên nước hoa được đánh số là ý tưởng đánh dấu công khai nước hoa #XXX (giả sử, #105) là "loại" hoặc "phiên bản", hoặc "аромат направления" (nghĩa đen là "hương thơm theo hướng") của nước hoa nổi tiếng.[42]
Người bán lại trực tiếp tại các cửa hàng truyền thống (trong trung tâm thương mại, cửa hàng ở sân bay) có thể cung cấp nước hoa "có thể làm đầy" và có xu hướng khẳng định nước hoa của họ liên quan đến nước hoa nổi tiếng được đề cập đến mức tuyên bố "được phân phối từ cùng một bể chứa",[theo ai?] tùy thuộc vào người bán lại.
- Tuy nhiên, với số lượng lớn khi mua hàng trên 5000RUB, một chai nhựa nước hoa "chọn lọc" 100ml có thể chỉ có giá tối đa 5 EUR (~450 RUB) (ví dụ: những loại này được làm từ các hương liệu từ "bình dân" cho đến những loại hiếm đắt tiền).
Các vấn đề sức khỏe và môi trường
[sửa | sửa mã nguồn]Các thành phần nước hoa, bất kể nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp, đều có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe hoặc môi trường khi sử dụng. Mặc dù các lĩnh vực đang được nghiên cứu tích cực, nhưng vẫn còn nhiều điều cần tìm hiểu về tác động của hương thơm đối với sức khỏe con người và môi trường.
Sức khỏe
[sửa | sửa mã nguồn]Miễn dịch học; hen suyễn và dị ứng
[sửa | sửa mã nguồn]Bằng chứng trên các tạp chí được bình duyệt cho thấy một số loại nước hoa có thể gây ra phản ứng hen suyễn ở một số người, đặc biệt là những người bị hen suyễn nặng hoặc dị ứng.[43] Nhiều thành phần hương thơm cũng có thể gây đau đầu, dị ứng da[44] hoặc buồn nôn.[45][46][47]
Trong một số trường hợp, sử dụng quá nhiều nước hoa có thể gây ra các phản ứng dị ứng trên da. Ví dụ, acetophenone, etyl acetat và aceton[39] trong nhiều loại nước hoa được biết đến hoặc có khả năng gây dị ứng đường hô hấp. Tuy nhiên, điều này có thể gây hiểu lầm vì tác hại của nhiều loại hóa chất này (tự nhiên hoặc tổng hợp) phụ thuộc vào điều kiện môi trường và nồng độ của chúng trong nước hoa. Ví dụ, linalool được liệt kê là chất gây kích ứng, gây kích ứng da khi nó phân hủy thành peroxide, tuy nhiên, việc sử dụng chất chống oxy hóa trong nước hoa hoặc giảm nồng độ có thể ngăn chặn điều này. Ngoài ra, furanocoumarin có trong chiết xuất tự nhiên của bưởi hoặc cần tây có thể gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng và tăng nhạy cảm với bức xạ tia cực tím.[48]
Một số nghiên cứu về chất thơm tự nhiên đã chỉ ra rằng nhiều loại có chứa các hợp chất gây kích ứng da.[49] Tuy nhiên, một số nghiên cứu, chẳng hạn như nghiên cứu của IFRA cho rằng opoponax quá nguy hiểm để được sử dụng trong sản xuất nước hoa vẫn còn thiếu sự đồng thuận về mặt khoa học.[50] Cũng đúng là đôi khi chỉ hít vào cũng có thể gây kích ứng da.
Một số cuộc khảo sát trong nước và quốc tế đã xác định balsam Peru, chất thường được sử dụng trong nước hoa, nằm trong "năm chất gây dị ứng hàng đầu" thường gây ra phản ứng thử nghiệm miếng đắp ở những người được chuyển đến phòng khám da liễu.[51][52][53] Một nghiên cứu vào năm 2001 cho thấy 3,8% người được thử nghiệm bị dị ứng với nó.[54] Nhiều loại nước hoa có chứa các thành phần giống như balsam Peru.[55]
Balsam Peru được sử dụng như một chất đánh dấu dị ứng nước hoa. Sự hiện diện của nó trong mỹ phẩm được biểu thị bằng thuật ngữ Myroxylon pereirae theo INCI.[56] Balsam Peru đã bị Hiệp hội Nước hoa Quốc tế cấm sử dụng như một hợp chất tạo mùi thơm từ năm 1982 nhưng có thể có mặt dưới dạng chiết xuất hoặc sản phẩm chưng cất trong các sản phẩm khác, nơi không cần ghi nhãn bắt buộc khi sử dụng từ 0,4% hoặc ít hơn.[55]
Khả năng gây ung thư
[sửa | sửa mã nguồn]Có bằng chứng khoa học cho thấy nitro-xạ hương như xylene xạ hương có thể gây ung thư trong một số thử nghiệm trên động vật cụ thể. Các báo cáo này được đánh giá bởi Ủy ban Khoa học về An toàn Người tiêu dùng của EU (SCCS, trước đây là SCCNFP[57]) và xylene xạ hương được chứng minh là an toàn để tiếp tục sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm.[58] Trên thực tế, một phần của các thủ tục của Quy định Mỹ phẩm ở Châu Âu là các nguyên liệu được phân loại là chất gây ung thư yêu cầu cơ quan chức năng đánh giá an toàn để được phép sử dụng trong các sản phẩm mỹ phẩm tiêu dùng.
Mặc dù các thành phần khác như xạ hương tổng hợp đa vòng đã được báo cáo là dương tính trong một số xét nghiệm hormone trong ống nghiệm,[59][60] các báo cáo này đã được các cơ quan chức năng xem xét. Ví dụ, đối với một trong những loại xạ hương đa vòng chính là Galaxolide (HHCB), các đánh giá này bao gồm các đánh giá của Ủy ban Khoa học EU về An toàn Người tiêu dùng,[61] Đánh giá các Chất ưu tiên của EU,[62] Ủy ban Khoa học EU về Rủi ro Môi trường và Sức khỏe[63] và gần đây là EPA Hoa Kỳ.[64] Kết quả của tất cả các đánh giá này trong hơn một thập kỷ qua là không có mối lo ngại về an toàn đối với sức khỏe con người. Các đánh giá với kết quả tích cực tương tự cũng tồn tại đối với một loại xạ hương đa vòng chính khác (AHTN)—về sự an toàn khi sử dụng trong mỹ phẩm theo EU.[65]
Nhiều chất thơm tự nhiên như rêu sồi,[49][66] dầu húng quế, dầu hoa hồng và nhiều chất khác chứa chất gây dị ứng hoặc các hợp chất gây ung thư, độ an toàn của chúng hoặc được điều chỉnh bởi các quy định (ví dụ: mức metyl eugenol cho phép trong Quy định Mỹ phẩm của EU (Mục 102, Phụ lục III của Quy định Mỹ phẩm của EU.[67]) hoặc thông qua các giới hạn khác nhau do Hiệp hội Nước hoa Quốc tế đặt ra.[68]
Môi trường
[sửa | sửa mã nguồn]Ô nhiễm
[sửa | sửa mã nguồn]Xạ hương tổng hợp có mùi dễ chịu và tương đối rẻ. Vì vậy chúng thường được sử dụng với số lượng lớn để che mùi khó chịu của bột giặt và nhiều sản phẩm tẩy rửa cá nhân. Do việc sử dụng trên quy mô lớn, một số loại xạ hương tổng hợp đã được tìm thấy trong chất béo và sữa người,[69] cũng như trong trầm tích và nước của Great Lakes.[70]
Các chất ô nhiễm này có thể gây ra thêm các vấn đề về sức khỏe và môi trường khi chúng xâm nhập vào thức ăn của người và động vật.
Sự nguy cấp của các loài
[sửa | sửa mã nguồn]Nhu cầu về nguyên liệu thơm như gỗ đàn hương, trầm hương và xạ hương cũng như buôn bán và thu hoạch trái phép đã dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của các loài này.
Quy định an toàn
[sửa | sửa mã nguồn]Ngành công nghiệp nước hoa ở Hoa Kỳ không chịu sự quản lý trực tiếp của FDA, thay vào đó FDA kiểm soát độ an toàn của nước hoa thông qua các thành phần của chúng và yêu cầu chúng phải được kiểm tra ở mức độ mà chúng được công nhận là an toàn nói chung (GRAS). Do nhu cầu bảo vệ bí mật kinh doanh, các công ty hiếm khi đưa ra danh sách đầy đủ các thành phần bất kể ảnh hưởng của chúng đối với sức khỏe. Ở Châu Âu, kể từ ngày 11 tháng 3 năm 2005, danh sách bắt buộc của một bộ 26 chất gây dị ứng hương thơm được công nhận đã được thực thi. [72] Yêu cầu liệt kê các vật liệu này phụ thuộc vào mục đích sử dụng của sản phẩm cuối cùng. Các giới hạn trên mà các chất gây dị ứng được yêu cầu công bố là 0,001% đối với các sản phẩm lưu lại trên da và 0,01% đối với các sản phẩm có thể rửa sạch. Điều này đã dẫn đến nhiều loại nước hoa cũ như chypres và fougère, vốn yêu cầu sử dụng chiết xuất từ cây sồi được cải tiến lại.
Bảo quản nước hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Các hợp chất tạo mùi thơm trong nước hoa sẽ bị biến chất hoặc hỏng nếu được bảo quản không đúng cách trong điều kiện nhiệt, ánh sáng, oxy và các vật liệu hữu cơ không liên quan. Bảo quản nước hoa đúng cách bao gồm việc giữ chúng tránh xa các nguồn nhiệt và cất chúng ở nơi không tiếp xúc với ánh sáng. Một chai đã mở nắp sẽ giữ được hương thơm nguyên vẹn trong vài năm miễn là nó được bảo quản tốt. [28] Tuy nhiên, sự có mặt của oxy trong khoang đầu của chai và các yếu tố môi trường về lâu dài sẽ làm biến đổi mùi của nước hoa.
Nước hoa được bảo quản tốt nhất khi được giữ trong chai nhôm kín nhẹ hoặc trong bao bì ban đầu khi không sử dụng và được bảo quản lạnh ở nhiệt độ tương đối thấp: từ 3–7 °C (37–45 °F). Mặc dù rất khó để loại bỏ hoàn toàn oxy ra khỏi khoang đầu của một bình lưu trữ hương thơm, nhưng lựa chọn thiết bị dạng xịt thay vì dạng con lăn và chai "mở" sẽ giảm thiểu tiếp xúc với oxy. Thuốc xịt cũng có lợi thế là cô lập hương thơm bên trong chai và ngăn không cho nó trộn với bụi, da và mảnh vụn, những thứ sẽ làm giảm chất lượng và thay đổi chất lượng của nước hoa.
Có một số kho lưu trữ và viện bảo tàng dành cho việc bảo tồn các loại nước hoa cổ, cụ thể là Osmothèque, nơi lưu trữ hơn 3.000 loại nước hoa từ hai thiên niên kỷ qua trong công thức ban đầu của chúng. Tất cả các mùi hương trong bộ sưu tập của họ được bảo quản trong các bình thủy tinh không nhạy quang được phủ bằng khí argon, được bảo quản trong các ngăn cách nhiệt duy trì ở 12 °C (53,6 °F) trong một hầm lớn.[71]
Danh sách nước hoa
[sửa | sửa mã nguồn]Xem thêm
[sửa | sửa mã nguồn]Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Perfume – Definition and More from Dictionary”. Merriam-Webster.
- ^ “perfume”. Online Etymology Dictionary. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2020.
- ^ Strathern, Paul (2000). Mendeleyev's Dream – The Quest For the Elements. New York: Berkley Books. ISBN 0-425-18467-6.
- ^ Levey, Martin (1973). Early Arabic Pharmacology: An Introduction Based on Ancient and Medieval Sources. Brill Archive. tr. 9. ISBN 90-04-03796-9.
- ^ A.K. Sharma; Seema Wahad; Raśmī Śrīvāstava (2010). Agriculture Diversification: Problems and Perspectives. I. K. International Pvt Ltd. tr. 140.
- ^ a b Roach, John (ngày 29 tháng 3 năm 2007). “Oldest Perfumes Found on "Aphrodite's Island"”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2014.
- ^ “Ancient Perfumes Recreated, Put on Display in Rome”. Fox News.
- ^ Elis, Kiss (ngày 2 tháng 6 năm 2018). “Ancient perfume recreated for anniversary show”. Kathimerini English Edition. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2018.
- ^ al-Hassani, Woodcok and Saoud (2006) 1001 Inventions; Muslim Heritage in Our World, FSTC, p.22.
- ^ M. Ullmann (1986), “AL-KĪMIYĀ”, The Encyclopaedia of Islam, 5 (ấn bản thứ 2), Brill, tr. 111b
- ^ E. Wiedemann; M. Plessner (1986), “AL-ANBĪḲ”, The Encyclopaedia of Islam, 1 (ấn bản thứ 2), Brill, tr. 486a
- ^ Henry George Liddell; Robert Scott biên tập (1897), “ἄμβιξ”, Greek-English Lexicon (ấn bản thứ 8), Harper & Brothers, tr. 73
- ^ Marcellin Berthelot (1889), Introduction à l'étude de la chimie des anciens et du moyen âge, Steinheil, tr. 164
- ^ Giovanni Dugo, Ivana Bonaccorsi (2013). Citrus bergamia: Bergamot and its Derivatives. CRC Press. tr. 467. ISBN 9781439862292.
- ^ Thompson, C.J.S. (1927). The Mystery and Lure of Perfume. London: John Lane the Bodley Head Limited. tr. 140.
- ^ Voudouri, Dimitra; Tesseromatis, Christine (tháng 12 năm 2015). “Perfumery from Myth to Antiquity” (PDF). International Journal of Medicine and Pharmacy. 3 (2): 52. doi:10.15640/ijmp.v3n2a4. Bản gốc (PDF) lưu trữ 16 Tháng tám năm 2021. Truy cập 11 Tháng mười một năm 2020.
- ^ Sullivan, Catherine (ngày 1 tháng 3 năm 1994). “Searching for nineteenth-century Florida water bottles”. Historical Archaeology (bằng tiếng Anh). 28 (1): 78–98. doi:10.1007/BF03374182. ISSN 0440-9213. S2CID 162639733.
- ^ Compare: Pepe, Tracy (2000). So, What's All the Sniff About?: An In-Depth Plea for Sanity and Equal Rights for Your Sense of Smell, Our Most Neglected and Endangered Sense. So Whats all the Sniff about. tr. 46. ISBN 9780968707609. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2015.
In 1693 an Italian, Giovanni Paolo de Feminis created a fragrance called "Aqua Mirabilis". This fragrance was said to have therapeutic properties to aid with headaches and heart palpitations. It was designed as a non-gender aroma that would enhance one's mood.
- ^ “A Brief History of Men's Cologne – Discover the History of Men's Fragrances-COLOGNE BLOG”. COLOGNE BLOG. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2014.
- ^ Charles Rice, Frederick Albert Castle (1879). New Remedies: An Illustrated Monthly Trade Journal of Materia Medica, Pharmacy and Therapeutics. W. Wood & Company. tr. 358.
- ^ a b Tynan Sinks (ngày 12 tháng 7 năm 2018). “The Difference Between Perfume, Cologne and Other Fragrances”. The New York Times. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2018.
You’ll see all sorts of names in the fragrance section: perfume, eau de toilette, parfum, eau de cologne. What makes them different — and in many cases, more expensive?
- ^ a b “Glossary (C)”. The Fragrance Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ “Scents from Vienna”. wien.info.
- ^ Berger, Paul. “Perfume 'Nose' Conjures Up Perfect Scents”. Forward.com. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2015.
- ^ Agata A. Listowska, MA; Mark A. Nicholson, ASO (2011). Complementary Medicine, Beauty and Modelling. Xlibris Corporation. tr. 153–4. ISBN 9781456888954.[nguồn tự xuất bản]
- ^ a b Turkington, Carol; Jeffrey S. Dover (2009). The Encyclopedia of Skin and Skin Disorders. Infobase Publishing. tr. 148. ISBN 9780816075096.
- ^ a b “Fragrance Info / FAQs”. The Fragrance Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2012.
- ^ a b Burr, Chandler (2003). The Emperor of Scent: A Story of Perfume, Obsession, and the Last Mystery of the Senses. New York: Random House. ISBN 0-375-50797-3.
- ^ a b c Perfume connoisseurs speak of a fragrance's "sillage", or the discernible trail it leaves in the air when applied. Fortineau, Anne-Dominique (2004). "Chemistry Perfumes Your Daily Life". Journal of Chemical Education.81(1)
- ^ Edwards, Michael (2006). "Fragrances of the World 2006". Crescent House Publishing. ISBN 0-9756097-1-8
- ^ Trần Việt Phương. “kiến thức về nước hoa”. Tiệm Nước Hoa. Truy cập 25 tháng Mười năm 2023.
- ^ “Coco Mademoiselle from Chanel”. Chanel.com. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2017.
- ^ Osborne, Grant (ngày 1 tháng 5 năm 2001). “Interview with Michael Edwards”. Basenotes.net. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2007. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Civet suffering”. Profumo.it. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
- ^ Olsen, Andreas; Linda C. Prinsloo; Louis Scott; Anna K. Jägera (Tháng mười một–Tháng mười hai năm 2008). “Hyraceum, the fossilized metabolic product of rock hyraxes (Procavia capensis), shows GABA-benzodiazepine receptor affinity” (PDF). South African Journal of Science. 103. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2011.
- ^ “Iso E Super®”. International Flavors & Fragrances. 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 2 năm 2008.
- ^ “Account Suspended”. Topcolognesformen.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2019. Truy cập 12 Tháng mười một năm 2020.
- ^ Camps, Arcadi Boix (2000). "Perfumery Techniques in Evolution". Allured Pub Corp. ISBN 0-931710-72-3
- ^ a b c Burr, Chandler (2008). The Perfect Scent: A Year Inside the Perfume Industry in Paris & New York. Henry Holt and Co. ISBN 978-0-8050-8037-7.
- ^ Calkin, Robert R. & Jellinek, J. Stephen (1994). "Perfumery: practice and principles". John Wiley & Sons, Inc.. ISBN 0-471-58934-9
- ^ a b David A. Einhorn; Lesley Portnoy (tháng 4 năm 2010), “The Copyrightability of Perfumes: I Smell a Symphony”, Intellectual Property Today
- ^ One example being Fidji by Guy Laroche—this particular example can be found on Reni.su.
- ^ Kumar P, Caradonna-Graham VM, Gupta S, Cai X, Rao PN, Thompson J (tháng 11 năm 1995). “Inhalation challenge effects of perfume scent strips in patients with asthma”. Ann. Allergy Asthma Immunol. 75 (5): 429–33. PMID 7583865.
- ^ Frosch PJ, Rastogi SC, Pirker C, và đồng nghiệp (tháng 4 năm 2005). “Patch testing with a new fragrance mix – reactivity to the individual constituents and chemical detection in relevant cosmetic products”. Contact Derm. 52 (4): 216–25. doi:10.1111/j.0105-1873.2005.00563.x. PMID 15859994. S2CID 5661020.
- ^ Deborah Gushman. “The Nose Knows”. Hanahou.com. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2008.
- ^ Apostolidis S, Chandra T, Demirhan I, Cinatl J, Doerr HW, Chandra A (2002). “Evaluation of carcinogenic potential of two nitro-musk derivatives, musk xylene and musk tibetene in a host-mediated in vivo/in vitro assay system”. Anticancer Res. 22 (5): 2657–62. PMID 12529978.
- ^ Schmeiser HH, Gminski R, Mersch-Sundermann V (tháng 5 năm 2001). “Evaluation of health risks caused by musk ketone”. Int J Hyg Environ Health. 203 (4): 293–9. doi:10.1078/1438-4639-00047. PMID 11434209.
- ^ Berenbaum, May (ngày 14 tháng 6 năm 2010). “Furanocoumarins as potent chemical defenses”.
- ^ a b Environmental and Health Assessment of Substances in Household Detergents and Cosmetic Detergent Products [1] Lưu trữ 2016-03-03 tại Wayback Machine
- ^ “SCIENTIFIC COMMITTEE ON CONSUMER PRODUCTS: SCCP” (PDF). Ec.europa.eu. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
- ^ Gottfried Schmalz; Dorthe Arenholt Bindslev (2008). Biocompatibility of Dental Materials. Springer. ISBN 9783540777823. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2014.
- ^ Thomas P. Habif (2009). Clinical Dermatology. Elsevier Health Sciences. ISBN 978-0323080378. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
- ^ Edward T. Bope; Rick D. Kellerman (2013). Conn's Current Therapy 2014: Expert Consult. Elsevier Health Sciences. tr. 264. ISBN 9780323225724. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
- ^ T. Platts-Mills; Johannes Ring (2006). Allergy in Practice. Springer. tr. 35. ISBN 9783540265849. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
- ^ a b Jeanne Duus Johansen; Peter J. Frosch; Jean-Pierre Lepoittevin (2010). Contact Dermatitis. Springer. tr. 556. ISBN 9783642038273. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2015.
- ^ M. H. Beck; S. M. Wilkinson (2010), “Contact Dermatitis: Allergic”, Rook's Textbook of Dermatology, 2 (ấn bản thứ 8), Wiley, tr. 26.40
- ^ “Scientific Committee on Consumer Safety (SCCS) - Public Health - European Commission”. Ec.europa.eu. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
- ^ “OPINION OF THE SCIENTIFIC COMMITTEE ON COSMETIC PRODUCTS AND NON-FOOD PRODUCTS INTENDED FOR CONSUMERS CONCERNING MUSK XYLENE AND MUSK KETONE” (PDF). Ec.europa.eu. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
- ^ Schreurs RH, Legler J, Artola-Garicano E, và đồng nghiệp (tháng 2 năm 2004). “In vitro and in vivo antiestrogenic effects of polycyclic musks in zebrafish” (PDF). Environ. Sci. Technol. 38 (4): 997–1002. Bibcode:2004EnST...38..997S. doi:10.1021/es034648y. PMID 14998010.
- ^ Schreurs RH, Sonneveld E, Jansen JH, Seinen W, van der Burg B (tháng 2 năm 2005). “Interaction of polycyclic musks and UV filters with the estrogen receptor (ER), androgen receptor (AR), and progesterone receptor (PR) in reporter gene bioassays”. Toxicol. Sci. 83 (2): 264–72. doi:10.1093/toxsci/kfi035. PMID 15537743.
- ^ “Opinion on hhcb” (PDF). Ec.europa.eu. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2019.
- ^ “European Union Risk Assessment Report: 1,3,4,6,7,8-HEXAHYDRO-4,6,6,7,8,8-HEXAMETHYLCYCLOPENTA-γ-2-BENZOPYRAN (1,3,4,6,7,8-HEXAHYDRO-4,6,6,7,8,8-HEXAMETHYLIN-DENO[5,6-C]PYRAN - HHCB)”. Echa.europa.eu. Bản gốc lưu trữ 19 Tháng Một năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Scientific Committee on Health and Environmental Risks: SCHER Opinion on Risk Assessment Report on 1,3,4,6,7,8-HEXAHYDRO4,6,6,7,8,8-HEXAMETHYLCYCLOPENTA-γ-2-BENZOPYRAN (HHCB) Human Health Part” (PDF). Ec.europa.eu. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
- ^ “TSCA Work Plan Chemicals - Existing Chemicals - OPPT - US EPA”. Epa.gov. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
- ^ “Opinion on ahtn” (PDF). Ec.europa.eu. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2019.
- ^ Rastogi SC, Bossi R, Johansen JD, và đồng nghiệp (tháng 6 năm 2004). “Content of oak moss allergens atranol and chloroatranol in perfumes and similar products”. Contact Derm. 50 (6): 367–70. doi:10.1111/j.0105-1873.2004.00379.x. PMID 15274728. S2CID 38375267.
- ^ “B REGULATION (EC) No 1223/2009 OF THE EUROPEAN PARLIAMENT AND OF THE COUNCIL of ngày 30 tháng 11 năm 2009 on cosmetic products” (PDF). Eur-lex.europa.eu. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
- ^ “standards - IFRA International Fragrance Association - in every sense”. Ifraorg.org. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
- ^ Duedahl-Olesen L, Cederberg T, Pedersen KH, Højgård A (tháng 10 năm 2005). “Synthetic musk fragrances in trout from Danish fish farms and human milk”. Chemosphere. 61 (3): 422–31. Bibcode:2005Chmsp..61..422D. doi:10.1016/j.chemosphere.2005.02.004. PMID 16182860.
- ^ Peck AM, Linebaugh EK, Hornbuckle KC (tháng 9 năm 2006). “Synthetic Musk Fragrances in Lake Erie and Lake Ontario Sediment Cores”. Environ. Sci. Technol. 40 (18): 5629–35. Bibcode:2006EnST...40.5629P. doi:10.1021/es060134y. PMC 2757450. PMID 17007119.
- ^ Colton, Sarah, "L’Osmothèque—Preserving The Past To Ensure The Future", Beauty Fashion Lưu trữ 2010-06-15 tại Wayback Machine
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- Burr, Chandler (2004). "The Emperor of Scent: A True Story of Perfume and Obsession" Random House Publishing. ISBN 978-0-375-75981-9
- Edwards, Michael (1997). "Perfume Legends: French Feminine Fragrances". Crescent House Publishing. ISBN 0-646-27794-4.
- Klymentiev, Maksym. "Creating Spices for the Mind: The Origins of Modern Western Perfumery". The Senses and Society. Vol. 9, 2014, issue 2.
- Moran, Jan (2000). "Fabulous Fragrances II: A Guide to Prestige Perfumes for Women and Men". Crescent House Publishing. ISBN 0-9639065-4-2.
- Turin, Luca (2006). "The Secret of Scent". Faber & Faber. ISBN 0-571-21537-8.
- Stamelman, Richard: "Perfume – Joy, Obsession, Scandal, Sin". Rizzoli. ISBN 978-0-8478-2832-6. A cultural history of fragrance from 1750 to the present day.
- Süskind, Patrick (2006). "Perfume: The Story of a Murderer". Vintage Publishing (English edition). ISBN 978-0-307-27776-3. A novel of perfume, obsession and serial murder. Also released as a movie with same name in 2006.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: |
- Synthetic No. 5 on natural and synthetic components
- Natural Perfumers Guild
- IFRA: International Fragrance Association
- The Fragrance Foundation "FiFi"
- The British Society of Perfumers
- Perfume formulations
- Institute for Art and Olfaction
- Scent Culture Institute