Bước tới nội dung

19 (album của Adele)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
19
Album phòng thu của Adele
Phát hành28 tháng 1 năm 2008
Thu âmTháng 9 năm 2006 – Tháng 10 năm 2007
Các địa điểm
    • Angel Studios
    • Bimbos
    • Highline Ballroom
    • Konk
    • Metropolis Studios
    • Olympic Studios
    • Rak Studios
    • Roxy
    • The Townhouse
    • World Café
Thể loạiBlue-eyed soul[1]
Thời lượng43:41
Hãng đĩaXL
Sản xuấtJim Abbiss, Mark Ronson, Eg White
Thứ tự album của Adele
19
(2008)
iTunes Live from SoHo
(2009)
Đĩa đơn từ 19
  1. "Hometown Glory"
    Phát hành: 22 tháng 10 năm 2007
  2. "Chasing Pavements"
    Phát hành: 21 tháng 1 năm 2008
  3. "Cold Shoulder"
    Phát hành: 21 tháng 4 năm 2008
  4. "Make You Feel My Love"
    Phát hành: 27 tháng 10 năm 2008

19 là album đầu tay của nữ ca sĩ-người viết bài hát người Anh Adele. Album được phát hành vào ngày 28 tháng 1 năm 2008, một tuần sau khi đĩa đơn chủ đạo "Chasing Pavements" ra mắt. Album xuất phát trên UK Albums Chart ở vị trí quán quân ngay trong tuần đầu tiên.[2]

Tại lễ trao giải Grammy lần thứ 51, Adele giành Giải Grammy cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[3] "Chasing Pavements" cũng được đề cử ba giải và giành về cho Adele Giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất.[3] Track cuối cùng của album, "Hometown Glory", được Adele viết trong 10 phút sau khi mẹ cô cố thuyết phục cô rời quê nhà West Norwood ở Luân Đôn để đi học đại học. Vào năm 2010, bài hát được đề cử giải Grammy cho Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất.[4]

19 nhìn chung nhận được nhiều ý kiến tích cực từ giới phê bình khi Billboard nhận xét "Adele thực sự có tiềm năng trở thành một trong số các nghệ sĩ truyền cảm hứng và được trân trọng nhất trong thế hệ của cô ấy."[5] Album được chứng nhận bạch kim bảy lần tại Anh và hai lần tại Hoa Kỳ.[6][7] Lượng bán ra của album ước đạt con số 7 triệu bản.[8]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]

Adele thu âm bài hát "Make You Feel My Love" của Bob Dylan the lời gợi ý từ quản lý của cô Jonathan Dickins, người rất yêu mến ca khúc này.[9] Vào tháng 7 năm 2008 Adele từng nói với nhạc sĩ soul Anh Quốc Pete Lewis rằng lý do cho tên album '19' là để phản ánh tuổi của cô khi cô đang sáng tác nó: "Tôi láng máng nhớ rằng mình đã trưởng thành như thế nào vào thời điểm đó. Và tôi nghĩ các bài hát là minh chứng cho điều đó."[10]

Ý kiến phê bình

[sửa | sửa mã nguồn]
Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
Metacritic68/100[11]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[12]
Digital Spy[13]
The Guardian[14]
The Independent[15]
Robert Christgau(1-star Honorable Mention)[16]
NME5/10[17]
PopMatters8/10[18]
The Observer[19]
The Sun[20]
The Times[21]

19 nhìn chung nhận được ý kiến tích cực từ giới phê bình. Album được chấm 68 trên 100 theo 19 nhận xét trên Metacritic.[11] Vào ngày 3 tháng 12 năm 2008, Adele nhận được bốn đề cử Grammy: Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất cũng như Thu âm của năm, Bài hát của nămTrình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất cho "Chasing Pavements" và chiến thắng tại hai trên bốn đề cử.[22] Một năm sau cô nhận tiếp một đề cử thứ hai ở hạng mục Trình diễn giọng pop nữ xuất sắc nhất cho "Hometown Glory", nhưng để tuột mất chiến thắng vào tay bài hát "Halo" của Beyoncé. The Observer đánh giá rất cao album với bình luận: "Nổi bật trên hết là cách cô ấy kéo dãn các nguyên âm, cách phân nhịp giàu cảm xúc và ấn tượng, niềm vui thích đầy thuần khiết trong chất giọng của cô; chút nghi ngờ khi cô ấy là một" và cho album 5 sao trên 5.[23] BBC Music cũng cho album nhiều nhận xét tích cực với bình luận: "Với chút gì đó blues, folkjazz, cô ấy đã mang đến cho mọi người một điều gì đó mà chẳng cần phải theo bất kì xu hướng nào cả. Giai điệu của cô ấy tỏa ra sự ấm áp, tiếng hát đôi khi khiến người ta chết lặng và, trong một Hometown Glory đầy xúc động, một Cold Shoulder sôi nổi (bất ngờ gợi lại Massive Attack thời hợp tác với Shara Nelson) và bản piano tầm cỡ Make You Feel My Love, cô có những bài hát khiến Lily AllenKate Nash trở nên hết sức bình thường."[24] Tuy nhiên album cũng nhận nhiều ý kiến trái ngược. Uncut cho rằng "Adele chắc chắn có khả năng ca hát, nhưng '19' gây cảm giác của một kẻ săn lùng xu hướng của A&R đang tìm kiếm một để ký hợp đồng với một Amy Mới và không dừng lại tới khi tìm ra đúng cô nàng ở Nam London để hoàn thành nhiệm vụ".[25] NME nhận xét album "thực sự, như cách '19' biểu đạt, rõ ràng là các mối liên quan tới Amy rất ít [...] Mặc dù đã có những dấu hiệu ban đầu, album không thể tự ngăn nó sụp đổ bởi sức nặng từ kì vọng".[26] People chấm album 4 trên 4 sao, chỉ ra rằng "với một giọng hát xuất sắc, dày mà không cứng, mạnh mẽ và bí hiểm, khó tin là cô gái này chưa qua tuổi teen."[27] Với điểm B-, Entertainment Weekly đánh giá rằng "các bài hát của Adele không sắc như Duffy...Nhưng xuyên suốt tiếng hát của cô vẫn rất đáng chú ý."[28] Chuck Taylor của Billboard cho rằng "Adele thực sự có tiềm năng trở thành một trong số các nghệ sĩ truyền cảm hứng và được trân trọng nhất trong thế hệ của cô ấy."[5]

Diễn biến xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Anh Quốc album xuất phát ở vị trí quán quân.[29] Tại Hoa Kỳ 19 debut ở vị trí 56 và duy trì ở nửa sau bảng xếp hạng Billboard 200 trong nhiều tuần liên tiếp. Sau màn thể hiện trong chương trình Saturday Night Live album vươn lên vị trí 46 và một tuần sau là vị trí thứ 11 với 25.000 bản được tiêu thụ. Vào năm 2009, sau khi chiến thắng 2 giải Grammy, album vươn lên vị trí thứ 10 trên Billboard 200 và đạt doanh số 843.880 bản. Vào tháng 2 năm 2012, 19 vươn lên vị trí thứ 4 trên Billboard 200 và tới nay đã được chứng nhận bạch kim 2 lần bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ.[30][31] Tính đến 24 tháng 4 năm 2011, 19 giữ vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Top Pop Catalog Albums trong 9 tuần, trở thành album thứ ba của một nghệ sĩ nữ có thể giữ vị trí đầu bảng lâu đến vậy trong 20 năm gần nhất.[32] Một tuần sau album tiếp tục giữ vị trí này và trở thành album đầu tiên kể từ Thriller 25 của Michael Jackson vào năm 2008 giữ vị trí đầu bảng trong 10 tuần.[33] Hai tháng sau 19 từ vị trí 27 lên vị trí thứ 16 trên Billboard 200, và lần thứ 16 đứng đầu trên Top Pop Catalog Albums.[34] Trong tuần lễ ra mắt album 21, 19 trở lại UK Albums Chart ở vị trí số 4 với doanh số 25.419 bản.[35] Một tuần sau vào ngày 6 tháng 2 năm 2011 album duy trì vị trí này trên bảng xếp hạng với thêm 27.660 bản được bán ra. 19 là album bán chạy thứ hai của năm 2011 tại Anh chỉ sau chính 21 khi nó gấp ba lần con số 7 tuần không liên tục trong top 10 của năm 2008 với 21 tuần liên tiếp của năm 2011. Tính đến tháng 2 năm 2012, 19 vượt qua con số 2 triệu bản tại Anh Quốc.[36] Tại Ireland, nhờ thành công của 21, album trở lại vị trí cao nhất trước đây (thứ 3) sau ba năm vào ngày 18 tháng 3 năm 2011. Album tiến lên vị trí nhì bảng hai tuần sau đó và giữ vị trí đó ngay sau 21 trong 6 tuần không liên tiếp. Album debut ở vị trí thứ 16 trên New Zealand Albums Chart nhờ ảnh hưởng của 21 và đạt cao nhất ở vị trí số 3.[37] Trong suốt năm 2012, 19 là album bán chạy thứ 10 tại Hoa Kỳ, giúp Adele có 2 album trong top 10 (21 số một).[38]

Quảng bá

[sửa | sửa mã nguồn]

Adele bắt đầu quảng bá cho 19 vào ngày 7 tháng 12 năm 2007 khi biểu diễn "Chasing Pavements" tại chương trình Friday Night with Jonathan Ross. Cô cũng biểu diễn ở nhiều chương trình lớn trên thế giới như Richard & Judy, Lily Allen and Friends, The View, Late Night with Conan O'Brien, Saturday Night Live, The Xtra Factor, Loose Women, The Tonight Show with Jay Leno, The Ellen DeGeneres Show, Giải Grammy lần thứ 51, Ugly Betty, Top of the Pops, Dancing with the Stars và nhiều chương trình khác.

Cô cũng mở một chuyến lưu diễn An Evening with Adele, bắt đầu từ tháng 1 năm 2008 tới 12 tháng 7 năm 2009.

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Daydreamer"Adele AdkinsJim Abbiss3:41
2."Best for Last"AdkinsAbbiss4:19
3."Chasing Pavements"Adkins, Eg WhiteEg White3:31
4."Cold Shoulder"Adkins, Sacha SkarbekMark Ronson3:12
5."Crazy for You"AdkinsAbbiss3:28
6."Melt My Heart to Stone"Adkins, Eg WhiteWhite3:24
7."First Love"AdkinsAbbiss3:10
8."Right as Rain"Adkins, Leon Michels, Jeff Silverman, Nick Movshon, Clay HolleyAbbiss3:17
9."Make You Feel My Love"Adkins, Bob DylanAbbiss3:32
10."My Same"AdkinsAbbiss3:16
11."Tired"Adkins, Eg WhiteWhite4:19
12."Hometown Glory"AdkinsAbbiss4:31
Bản đặc biệt Đài Loan
STTNhan đềThời lượng
13."Chasing Pavements" (Video đi kèm thêm) 
Track bổ sung tại Nhật
STTNhan đềSáng tácThời lượng
13."Painting Pictures"Adkins3:34
14."Now and Then"Adkins3:24
15."That’s It, I Quit, I'm Moving On (trực tiếp)" (hát lại của Sam Cooke)Del Serino, Roy Alfred2:12
Đĩa bổ sung phiên bản giới hạn tại Hoa Kỳ
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Right as Rain" (trực tiếp)Adkins, Michels, Silverman, Movshon, Holley3:28
2."Melt My Heart to Stone" (trực tiếp)Adkins, White3:21
3."My Same" (trực tiếp)Adkins3:02
4."That's It, I Quit, I'm Movin' On" (hát lại trực tiếp của Sam Cooke)Serino, Alfred2:21
5."Chasing Pavements" (trực tiếp)Adkins, White3:49
Đĩa bổ sung phiên bản mở rộng 2009 - Trực tiếp acoustic từ Hotel Café, Los Angeles
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Chasing Pavements"
  • Adkins
  • White
3:52
2."Melt My Heart to Stone"
  • Adkins
  • White
3:21
3."That's It, I Quit, I'm Movin' On"" (hát lại của Sam Cooke)
  • Serino
  • Alfred
2:07
4."Crazy for You"Adkins3:43
5."Right as Rain"
  • Adkins
  • Michels
  • Silverman
  • Movshon
  • Holley
3:32
6."My Same"Adkins3:05
7."Make You Feel My Love"Dylan3:52
8."Daydreamer"Adkins3:41
9."Hometown Glory"Adkins3:48
10."Many Shades of Black" (Track bổ sung hợp tác với The Raconteurs)4:28

Danh sách tham gia thực hiện album

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Adele Adkins – giọng ca chính, guitar (trong "Daydreamer", "Crazy for You" và "My Same"), guitar bass (trong "Best for Last"), celesta (trong "First Love"), cowbell (trong "Right as Rain")
  • Jim Abbiss – glockenspiel, sản xuất, mixing
  • Matt Allchin – guitar
  • Helen Atkinson – kĩ sư trợ lý
  • Pete Biggins - trống, bộ gõ ("trong Cold Shoulder")
  • Neil Cowley – piano, organ hammond, wurlitzer
  • Rosie Danvers – hòa âm bộ dây
  • Tom Elmhirst – mixing
  • Simon Hayes – trợ lý mixing
  • Liam Howe – programming
  • Sam Koppelman – glockenspiel
  • Geoff Metcalfe – piano
  • Serge Krebs – kĩ sư trợ lý, trợ lý mixing
  • Matt Lawrence – kĩ sư
  • Phil Lee – Chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế, chụp ảnh
  • Archibald Alexander MacKenzie – kĩ sư trợ lý, trợ lý mixing
  • Will Malone – hòa âm bộ dây, chỉ huy bộ dây, sáng tác bộ dây
  • Perry Mason – nhạc cụ bộ dây
  • Dom Morley – kĩ sư
  • Dan Parry – trợ lý mixing
  • Matt Paul – trợ lý
  • Jack Peñate – giọng bè
  • Fergus Peterkin – trợ lý mixing
  • Seb Rochford - trống (trong "My Same")
  • Mark Ronson – sản xuất
  • Louis "Kayel" Sharpe – trống (trong "Right As Rain")
  • Jason Silver – keyboard
  • Michael Tighe – guitar
  • Eg White – hòa âm, sản xuất
  • Richard Wilkinson – kĩ sư, mixing
  • Stuart Zender – guitar bass
  • Clay Wells Holley – kĩ sư

Thứ tự đĩa đơn

[sửa | sửa mã nguồn]
Anh Quốc
châu Âu, Úc và Nhật Bản
  • "Chasing Pavements"
  • "Cold Shoulder"
Canada và Hoa Kỳ
  • "Hometown Glory"
  • "Chasing Pavements"
Tây Ban Nha
  • "Chasing Pavements"
Đức
  • "Chasing Pavements"
Hà Lan
  • "Chasing Pavements"
  • "Cold Shoulder"
  • "Make You Feel My Love"
  • "Hometown Glory"

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận và doanh số

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[87] 2× Bạch kim 140.000^
Bỉ (BEA)[88] 2× Bạch kim 60.000*
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[89] Vàng 15.000^
Phần Lan (Musiikkituottajat)[90] Vàng 15.709[90]
Đức (BVMI)[91] Bạch kim 300.000^
Ý (FIMI)[92] Vàng 35.000*
Hà Lan (NVPI)[93][94] 5× Bạch kim 300.000^
New Zealand (RMNZ)[95] Bạch kim 15.000^
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[96] Bạch kim 80.000^
Anh Quốc (BPI)[97] 7× Bạch kim 2.100.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[98] 2× Bạch kim 2.000.000^
Tổng hợp
Châu Âu (IFPI)[99] 3× Bạch kim 3.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]
Khu vực Ngày Định dạng Hãng đĩa
châu Âu 25 tháng 1 năm 2008
  • CD
  • tải kĩ thuật số
XL Recordings
Úc 26 tháng 1 năm 2008
Anh Quốc 28 tháng 1 năm 2008
Hoa Kỳ 10 tháng 6 năm 2008 Columbia Records
Ba Lan[100] 24 tháng 11 năm 2008 XL Recordings
Brasil[101] 6 tháng 6 năm 2011 Sony Music
Trung Quốc[102] 13 tháng 3 năm 2013 CD 星外星唱片 (Starsing Records)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Cairns, Dan (ngày 1 tháng 2 năm 2009). “Blue-eyed soul: Encyclopedia of Modern Music”. The Sunday Times. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2011.
  2. ^ “Adele's album debuts at chart top”. BBC News. ngày 3 tháng 2 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2008.
  3. ^ a b “Brits on top: Duffy, Adele and Coldplay clinch top awards as they lead British winners at Grammys”. Daily Mail. London: Associated Newspapers. ngày 9 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2011.
  4. ^ 11 tháng 2 năm 143-2011.html TWO-TIME GRAMMY® AWARD WINNER ADELE TO PERFORM ON CBSCBS Radio. Truy cập 23 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ 2011-11-27 tại Wayback Machine
  5. ^ a b "The Billboard Reviews" Billboard (7 tháng 6 năm 2008). tr.50.
  6. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2011.
  7. ^ "Gold & Platinum – ngày 19 tháng 2 năm 2011".Recording Industry Association of America. Truy cập 19 tháng 3 năm 2012. Lưu trữ 2016-01-05 tại Wayback Machine
  8. ^ Adele says she won't change herself for any man (we give her a little high five)Daily Mirror. Truy cập 7 tháng 3 năm 2012 Lưu trữ 2015-07-02 tại Wayback Machine
  9. ^ “Interview with Jonathan Dickins”. HitQuarters. ngày 14 tháng 7 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2011.
  10. ^ “Adele interview by Pete Lewis, 'Blues & Soul' July 2008”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  11. ^ a b “19 Reviews, Ratings, Credits, and More at Metacritic”. Metacritic.com. ngày 10 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  12. ^ “AllMusic review”.
  13. ^ “Digital Spy review”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  14. ^ Lynskey, Dorian (ngày 25 tháng 1 năm 2008). “The Guardian review”. Luân Đôn. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  15. ^ Gill, Andy (ngày 25 tháng 1 năm 2008). “The Independent review”. Luân Đôn. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  16. ^ “Adele 19”. Robert Christgau. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2013.
  17. ^ “NME review”. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  18. ^ “PopMatters review”. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  19. ^ “The Observer review”. The Guardian. Luân Đôn. ngày 20 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  20. ^ Swift, Jacqui (ngày 17 tháng 1 năm 2008). “The Sun review”. Luân Đôn. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  21. ^ Paphides, Pete (ngày 25 tháng 1 năm 2008). “The Timesreview”. Luân Đôn. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2011.
  22. ^ The 51st Annual Grammy Awards Nominations List. Lưu trữ 2008-12-05 tại Wayback Machine
  23. ^ Caspar Llewellyn Smith (ngày 20 tháng 1 năm 2008). “CD: Adele, 19 | Music | The Observer”. Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  24. ^ “Music – Review of Adele – 19”. BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  25. ^ “Adele – 19 – Review”. Uncut.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  26. ^ “Adele – Adele – Album Reviews”. Nme.Com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  27. ^ Arnold, Chuck (ngày 23 tháng 6 năm 2008). “Adele”. People. 69 (24). tr. 44.
  28. ^ Wood, Mikael (13 tháng 6 năm 2008) "19". Entertainment Weekly. (997):70
  29. ^ a b “Adele – 19”. Chart Stats. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  30. ^ “Gold & Platinum – February 19, 2011”. RIAA. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  31. ^ a b Adele's '21' Hits 21st Week at No. 1; Sells 730,000 Post-Grammy Billboard. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012 Lưu trữ 2013-09-11 tại Wayback Machine
  32. ^ “Week Ending ngày 24 tháng 4 năm 2011. Albums: Real Or TV? – Chart Watch”. Yahoo Music. ngày 28 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.[liên kết hỏng]
  33. ^ “Week Ending ngày 1 tháng 5 năm 2011. Albums: Adele Saves Music Biz – Chart Watch”. Yahoo Music. ngày 4 tháng 5 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  34. ^ “Week Ending ngày 26 tháng 6 năm 2011. Albums: Real And Parody – Chart Watch”. Yahoo Music. ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.[liên kết hỏng]
  35. ^ Jones, Alan (ngày 31 tháng 1 năm 2011). “Adele powers to top of albums chart”. Music Week. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  36. ^ Kriesler, Lauren (ngày 26 tháng 2 năm 2012). “BRITs star Adele sparkles in the spotlight with Official Number 1 album”. The Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2012.
  37. ^ “Recording Industry Association of New Zealand”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
  38. ^ Adele, Gotye Lead Mid-Year SoundScan Charts Truy cập 7 tháng 7 năm 2012. Lưu trữ 2013-10-04 tại Wayback Machine
  39. ^ “Top 50 Albums Chart – Australian Recording Industry Association”. ARIA. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2011.
  40. ^ a b c d e f g h i j Steffen Hung. “Adele – 19”. lescharts.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  41. ^ “Albums: Top 100 for the week ending 19 may, 2011”. jam.canoe.ca. ngày 26 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  42. ^ ds. “Čns Ifpi”. Ifpicr.cz. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  43. ^ Steffen Hung. “Adele – 19”. dutchcharts.nl. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  44. ^ “Adele – 19”. ifpi.fi. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2011.
  45. ^ musicline.de / PhonoNet GmbH. “Die ganze Musik im Internet: Charts, News, Neuerscheinungen, Tickets, Genres, Genresuche, Genrelexikon, Künstler-Suche, Musik-Suche, Track-Suche, Ticket-Suche”. musicline.de. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  46. ^ “Adele: Erste Spitzenreiterin der Independent-Charts – media control”. Media-control.de. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  47. ^ “Ελληνικό Chart”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  48. ^ “MAHASZ – Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége” (bằng tiếng Hungary). mahasz.hu. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  49. ^ “GFK Chart-Track”. Chart-track.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2011.
  50. ^ “Artisti – Classifica settimanale dal 16/01/2012 al 22/01/2012” (bằng tiếng Ý). FIMI. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2012.
  51. ^ “Mexican Charts – Adele – 19 (album)”. Mexicancharts.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  52. ^ “アデルのCDアルバムランキング │オリコン芸能人事典-ORICON STYLE”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  53. ^ “New Zealand Charts – Adele – 19 (album)”. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  54. ^ “Oficjalna lista sprzedaży:: OLIS – Official Retail Sales Chart” (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2012.
  55. ^ “Эй, товарищ” (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012.
  56. ^ “JAAROVERZICHTEN 2008”. Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  57. ^ “JAAROVERZICHTEN – ALBUMS 2008”. MegaCharts. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  58. ^ “Classement Albums – année 2008”. Disque en France. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  59. ^ a b “Year End 2009” (PDF). UKChartsPlus. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  60. ^ “JAAROVERZICHTEN – ALBUMS 2009”. MegaCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  61. ^ “JAAROVERZICHTEN – ALBUMS 2010”. MegaCharts. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2011.
  62. ^ “End Of Year Charts: 2010” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2011.
  63. ^ “Adele's "21" crowned ARIA's highest selling album of 2011 LMFAO takes single honours with "Party Rock Anthem" (PDF). Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2012.
  64. ^ “dutchcharts.nl - Dutch charts portal”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  65. ^ “InfoDisc: Les Meilleurs Ventes de CD (Albums) en 2011”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  66. ^ “VIVA Album Jahrescharts 2011 – 2011” (bằng tiếng Đức). Chartinfrance. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.
  67. ^ “Best of 2011”. Irish Recorded Music Association. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.
  68. ^ “Adele dominates NZ end of year charts”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2011.
  69. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia:: Związek Producentów Audio-Video”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  70. ^ “TOP 50 ALBUMES 2011” (PDF). PROMUSICAE. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2012.
  71. ^ “The Top 20 biggest selling albums of 2011 revealed!”. The Official Charts. ngày 2 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2012.
  72. ^ “2011 Year End Charts – Top Billboard 200 Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011.
  73. ^ “ARIA Top 100 Albums 2012”. ARIA. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2015.
  74. ^ “El álbum más vendido durante 2012 en Argentina” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  75. ^ a b “ultratop.be - ULTRATOP BELGIAN CHARTS”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  76. ^ “dutchcharts.nl - Dutch charts portal”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  77. ^ “InfoDisc: Les Meilleurs Ventes de CD (Albums) en 2012”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  78. ^ “VIVA Jahrescharts 2012 Album – Alle Musikvideos – Chart – VIVA.tv” (bằng tiếng Đức). VIVA.tv. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2013.
  79. ^ “Best selling albums of Hungary in 2012”. Mahasz. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2012.
  80. ^ “Top 100 Album Combined – Classifica annuale (dal 2 Gennaio 2012 al 30 Dicembre 2012)” (PDF) (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana / TV Sorrisi e Canzoni. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  81. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia:: Związek Producentów Audio-Video”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  82. ^ “Top 50 Albumes Anual 2012” (PDF). Promuiscae.es. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2013.
  83. ^ a b “Billboard 200 Albums: Dec 27, 2013 | Billboard Chart Archive”. Bản gốc lưu trữ Tháng 10 31, 2013. Truy cập Tháng 9 10, 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập=|archive-date= (trợ giúp)
  84. ^ “ultratop.be - ULTRATOP BELGIAN CHARTS”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  85. ^ “ultratop.be - ULTRATOP BELGIAN CHARTS”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2015.
  86. ^ “2013 Year-End Charts – Billboard 200 Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2013.
  87. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2012 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  88. ^ “Ultratop − Goud en Platina – albums 2012” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  89. ^ “Certificeringer”. International Federation of the Phonographic Industry of Denmark. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  90. ^ a b “Chứng nhận album Phần Lan – Adele – 19” (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  91. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Adele; '19')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  92. ^ “Certificazione Album fisici e digitali dalla settimana 1 del 2009 alla settimana 21 del 2012” (PDF) (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  93. ^ “Tweede album Adele al na ruim drie maanden vijfmaal platina!”. ShowNu.nl. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  94. ^ “Adele at Heineken Music Hall (Amsterdam) on 17 Apr 2009 –”. Last.fm. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2011.
  95. ^ “The Official New Zealand Music Chart – Album – ngày 6 tháng 2 năm 2012”. Recording Industry Association of New Zealand. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  96. ^ “Chứng nhận album Tây Ban Nha – Adele – 19”. El portal de Música (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  97. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Adele – 19” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2012. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập 19 vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  98. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Adele – 19” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  99. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2011”. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  100. ^ “19 – Adele – empik.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
  101. ^ “Adele – 19”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2011.
  102. ^ “阿黛尔《19》 《21》购买攻略-星外星唱片官方网站 - 有观点的聆听”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
Tiền nhiệm:
Scouting for Girls của Scouting for Girls
Album quán quân Anh Quốc
3 tháng 2 năm 2008 – 9 tháng 2 năm 2008
Kế nhiệm:
Sleep Through the Static của Jack Johnson
Tiền nhiệm:
Wit Licht của Marco Borsato
Working on a Dream của Bruce Springsteen
Wit Licht – Live của Marco Borsato
April của Bløf
Album quán quân Hà Lan
10–31 tháng 1 năm 2009
14–21 tháng 2 năm 2009
4–11 tháng 4 năm 2009
25 tháng 4 – 16 tháng 5 năm 2009
Kế nhiệm:
Working on a Dream của Bruce Springsteen
Luister của Nick & Simon
April của Bløf
NW8 của Guus Meeuwis