Bước tới nội dung

Surimono

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một bản in surimono của Katsushika Hokusai
Mực, cá tráp và cá ngừ Bonito. của Setsuri (hiện không có thông tin gì về Setsuri (雪里) ngoài việc ông từng thiết kế bản in surimono này cho Đội trình diễn Trống (có con dấu ở góc phải trên) khoảng năm 1820).

Surimono (摺物?) là một thể loại in mộc bản của Nhật Bản. Chúng được đặt riêng cho những dịp đặc biệt như Giao thừa. Surimono có nghĩa đen là "vật được in". Được sản xuất với số lượng nhỏ, đối tượng hướng đến chủ yếu là giới văn nhân. Surimono thường mang tính thử nghiệm đề tài, phương pháp và sử dụng những kỹ thuật in tốn kém hơn so với các bản in thương mại thông thường. Chúng phổ biến nhất từ những năm 1790 đến 1830, và nhiều nghệ nhân hàng đầu đều đã từng thực hiện sản xuất chúng.[1]

Áp dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Surimono thường được các hội thơ ủy quyền để minh họa cho những bài thơ đoạt giải, trong cuộc thi thơ do hội đồng đánh giá. Các bản in như vậy thường có định dạng nhỏ, thường khoảng 205 × 185 mm, khiến việc khắc chạm các ký tự Kanji đòi hỏi rất nhiều kỹ năng tay nghề. Các nghệ sĩ kịch Kabuki cũng đặt in áo surimono để kỷ niệm các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của họ, chẳng hạn như các dịp kế thừa tên hay màn ra mắt sân khấu của con trai họ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “surimono”. Japanese Architecture and Art Net Users System. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  • Hockley, Allen (2006). Public Spectacles, Personal Pleasures: Four Centuries of Japanese prints from a Cincinnati Collection. Cincinnati: Cincinnati Art Museum. ISBN 0-931537-29-0.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Bowie, Theodore; in collaboration with James T. Kenney and Fumikoe Togashi (1981). Art of the Surimono. N/A: Indiana University Press. ISBN 9780253304759. OCLC 795508326. Based on an exhibition at the Indiana University Art Museum, February 25 – ngày 25 tháng 3 năm 1979.Quản lý CS1: postscript (liên kết)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]